I. DẪN
NHẬP
Những người học thiền thường nghe câu: “Đản nguyện không chư sở hữu, thiết vật thật
chư sở vô”: chỉ cốt thấy mọi hiện tượng đều là không, nhưng nhất thiết đừng
làm cho cái không ấy trở thành thực có. Có nghĩa là đừng “chấp không”. Bởi vì
có rất nhiều thứ “không” tùy nơi chốn, tùy trình độ tu chứng. Trong kinh Trung
bộ, Phật lấy ví dụ một tỷ kheo sống trong một tịnh thất ở làng, thì không có
những phiền não của làng mạc chợ búa gọi là “thôn tưởng” nhưng không phải là
không có chúng tỷ kheo, gọi là “nhân tưởng”. Khi vị ấy vào rừng độc cư thiền
tịnh, thì không có nhân tưởng (vì ở một mình) nhưng còn có những ảo tưởng do
đời sống ở rừng gây ra như nghe tiếng cọp gầm, tiếng phi nhân... gọi là “lâm tưởng”.
Cái gì có, vị tỷ kheo xác nhận là có, cái gì không, vị ấy xác nhận là không.
Như vậy là sự sống tỉnh giác của người tu tập để gột rửa tham ưu ở đời. Đó là
cái “không” đạt được do từ bỏ dần dần, gọi là “tích không quán”.
Hãy lấy một ví dụ khác về những cái “không” khác
nhau như sau. Cái “không” của phàm phu là không các pháp thượng nhân, không
giới không định không tuệ. Cái không của người xuất gia là không gia đình vợ
con. Cái không của sơ quả tu đà hoàn là không năm triền cái. Cứ thế càng tiến
tu, thì càng “không” được nhiều thứ nữa, cho đến khi không còn gì để mà “không”
được nữa, mới gọi là “chân không”. Các bậc hiền thánh đều có những cái “không”
khác nhau, như kinh Kim cang nói, “Nhất
thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt” (từ một pháp vô vi –
tức Không – mà có nhiều tầng bậc hiền thánh khác nhau).
Nếu ôm giữ một cái “không” thì không thể tiến lên
những cái “không” cao vượt hơn. Người tu hành cần đạt đến chỗ tuyệt đỉnh là trí
tuệ Bát nhã chân không, mà trong Trung bộ kinh đức Phật gọi là “an trú trong
Tính không”: “Này các tỷ kheo, ta nhờ an trú tính không nên rất an lạc”.
Tính không mà đức Phật an trú đó chính là bát nhã
chân không. Kinh Trung bộ mệnh danh là “đại không”, được giải thích như sau.
Khi đức Phật tiếp xúc với đủ mọi hạng người trong xã hội, tâm Ngài luôn hướng
về viễn ly, độc cư, ly dục, cho nên được bất dộng. Đó gọi là an trú nội không,
ngoại không, nội ngoại không, an trú bất động. Nội không là cái không của ngũ
uẩn, lục căn. Vì sao nói năm uẩn là không? Trong kinh Đại Bát nhã Phật đã giải
thích, Bồ tát khi thực hành Bát nhã sâu xa thì thấy năm uẩn là không, vì khi ấy
sắc uẩn không còn cái tướng biến ngại, thọ uẩn không còn tướng lãnh nạp, tưởng
uẩn không còn tướng thủ tượng, hành uẩn không còn tướng tạo tác, thức uẩn không
còn tướng liễu biệt. Trong khi đối với phàm phu, thì cơ thể vật chất (sắc) là
hiện tượng biến đổi không ngừng và gây chướng ngại (cho tâm) thì trái lại, đối
với Bồ tát, vật chất không là chướng ngại, cho nên nói sắc là Không. Đối với
phàm phu, thọ có đặc tính là lãnh nạp các cảm giác về thân và tâm, nhưng vì Bồ
tát đã đạt đến mức cao độ về sự ìàm chủ thân xác nên dù có xúc cảnh vui cảnh
khổ, Bồ tát cũng không thọ vui thọ khổ. Đặc tính của tưởng uẩn là nắm giữ các
hình ảnh, thu vào các ấn tượng về sắc, thanh, hương, vị, xúc sau khi năm giác
quan tiếp xúc với năm đối tượng. Nhưng với Bồ tát, tưởng uẩn không còn làm cái
nhiệm vụ nắm giữ hình ảnh nữa, cái gì thấy nghe rồi là bỏ qua không ôm giữ làm
gì, cho nên tưởng uẩn với Bồ tát là không. Hành uẩn thông thường có nhiệm vụ
tạo tác biên diễn, đó là một nối dài của ý thức thành vô thức, như mộng mị, mơ
tưởng do ngã chấp. Nhưng với Bồ tát, đã không nắm giữ các ấn tượng thấy nghe
nên cũng không có tạo tác thêm những hình ảnh trong vô thức, do vậy Bồ tát
không có chiêm bao mộng mị, và với Bồ tát, hành uẩn là không. Đặc tính của thức
uẩn là liễu biệt, phân biệt rõ ràng thiện ác phải quấy, đó là thường tình của
phàm phu. Nhưng Bồ tát sống với trí tuệ, nên thức uẩn cũng không có cái tướng
phân biệt thương ghét tốt xấu.
Do vậy mà với Bồ tát, năm uẩn là không, ấy gọi là
nội không. Ngoại không vì cảnh ngoài khi ấy có cũng như không. Ngoại không là
cái không của sáu trần. Nội ngoại không là vì bên trong tâm đã không cho nên
cảnh ngoài dù có dù không, cũng không thành vấn đề. Ngoại không là cái không
của cả chủ thể lẫn đối tượng, rỗng rang vô ngại không còn ngăn cách. Bất động
là tâm được bất động, hậu quả của sự an trú như vậy. Đức Phật còn dạy, muốn an
trú như vậy trước hết phải tu bốn thiền. Nghĩa là muốn quán cái cột nhà hay
vách tường trước mắt thành không có, thì ít nhất cũng phải chứng tứ thiền cái
đã, mới thực sự thấy nó là không. Ngang đây người thực hành mật tông cũng phải
trải qua, nhưng từ đây bắt đầu chỗ rẽ, sự khác nhau giữa mật và thiền. Có thể
nói mật tông bao hàm cả thiền tông, và còn vượt xa hơn thiền tông một bực.
II. KIM
CƯƠNG THỪA Và NHỮNG NGUY HIỂM CHỜ ĐỢI HÀNH GIẢ
Trong khi khẩu quyết của Thiền là “tức tâm thành Phật”, tâm ngươi chính là
Phật, thì mật tông táo bạo hơn, xác quyết “tức
thân thành Phật”. Cái thân ngũ uẩn nếu tách rời ngã chấp thì không khác gì
thân Phật. Từ nhận định ấy, mật tông có những lối tu hành đặc biệt, không giống
bất cứ pháp môn nào khác trong Phật giáo mà ta đã biết. Một trong những lối tu
đó là phương pháp quán mandala gọi là deity yoga (thiền quán về chư thiên),
trong đó, sau khi thiền định về Tính không của tâm thức, hành giả sử dụng nền
tảng Không ấy để tưởng về thân và tâm mình như những thực thể hoàn toàn trong
sáng không tì vết, như chư thiên. Và trong Không ấy, không những chỉ có một vị
trời mà có rất nhiều vị, từ ngũ uẩn, lục căn, từ các thân phần biến thành, nói
tóm lại có bao nhiêu uế vật trong thân thể phàm phu thì có bấy nhiêu vị chư
thiên tràn trề ánh sáng. Vì thân thể đã được chuyển hóa, thuần tịnh nên hoàn
cảnh và hoạt động của nó cũng được chuyển hóa: núi sông cây cỏ đều trở thành
cảnh giới chư thiên, những hoạt động bình thường như đi đứng nói im không gì là
không thuần tịnh. Tóm lại, trong mandala toàn là chư thiên và cảnh giới của chư
thiên, và mandala ấy tượng trưng cho thân tâm của hành giả.
Mật tông được gọi là “kim cương thừa” bởi lẽ đó là
lối tu cao nhất, và cam go nhất. Người chọn mật tông phải vì một động cơ cao cả
là lòng bi mẫn lớn lao đối với chúng sinh đau khổ, muốn sớm thành Phật quả để
độ sinh. Vì mục đích đặc biệt này, vai trò của bậc thầy trong mật tông hết sức
quan trọng, quả thế, còn trọng hơn cả ngôi tam bảo ít nhất trong giai đoạn đầu.
Do đó trong Hồng danh bửu sám, một lối hành trì có lẽ bắt nguồn từ mật tông,
trước khi lễ Phật hành giả đảnh lễ “Nam mô Kim cang thượng sư” là bậc thầy về
mật tông.
Người chọn mật tông để tu tập phải chấp nhận ba
điều nguy hiểm có thể xảy đến cho tính mạng: một là chết, hai là điên loạn, ba
là trở thành phế nhân.
Trái ngược với thiền “an trú tính không”, và xem
như không tất cả mọi hiện tượng trước mắt, mật tông lại vận dụng trí tưởng
tượng tới mức tối đa trong lúc quán đồ hình hay mandala. Từ sự quán tưởng những
vật trước kia không, nay thành ra có, mà hành giả cuối cùng thấy được tất cả
cái có cái không đều tương đối, giả huyễn, và do dó giải thoát khỏi mọi tham ưu
ở đời, nhưng đồng thời vẫn có thể biến hóa đủ thứ vì mục đích độ sinh.
III.
CÁC GIAI ĐOẠN TU QUÁN
Nói đến mật tông là nói đến mandala, phép quán đảnh
và các ấn quyết, vì mật tông đặc biệt chú trọng sự tướng, gọi là “tam mật gia trì”. Danh từ “mandala” có
rất nhiều ý nghĩa, thường dịch là đàn tràng hay đồ hình, nhưng có khi ám chỉ y
báo chính báo tức vũ trụ và con người, có khi biểu trưng những yếu tố đất,
nước, lửa, gió, hư không dùng để quán tưởng, có khi ám chỉ một chúng hội Bồ
tát, chư thiên, vv.., và trú xứ của chư thiên; có khi mandala chỉ là một vòng
ánh sáng hay một giọt nước thơm. Quán đảnh là phép làm cho tịnh hóa, thánh hóa
các sự vật chưa được thanh tịnh. Sau khi đã thọ phép quán đảnh của một bậc
thầy, hành giả mới đủ tư cách hành trì mật tông mà không sợ tác hại. Mandala ở
đây là một đồ hình biểu tượng cho một thế giới vô hình, nhưng tác động hữu hiệu
trên thế giới hữu hình chúng ta. Có nhiều kiểu đồ hình tùy theo mục đích của
hành giả. Những mandala cốt luyện để ám hại một người nào, tức là thuật phù
thủy, thường có hình tam giác, còn những mandala khác có hình tròn hoặc vuông.
Làm một mandala để tu quán rất công phu mất nhiều thời gian, và phải được một
bậc thầy chuyên môn kết giới thì mới linh nghiệm. Sau khi kết đàn tràng và đã
có sự làm phép của bậc thầy, hành giả bắt đầu tu quán. Đại khái, mandala cũng
như một khu vực trong đó vị thần được hô triệu bằng chú thuật và ấn quyết sẽ
xuất hiện cho hành giả, sau khi hành trì đúng mức. Trong một mandala có rất
nhiều yếu tố biểu trưng cho những phi nhân trong cõi vô hình mà chỉ người
chuyên môn mới hiểu được. Những yếu tố này được biểu trưng bằng những vật như
hình nhân, bánh oản, cát ngũ sắc, v.v..
Một hành giả mật tông thường quán tưởng vị thần hộ
mạng cho mình, ví dụ nữ thần Tara hay Quan Âm
Bồ tát. Sau khi thiết lập một mandala (Tạng ngữ là kyilkhor) theo đúng nghi
thức mật tông, vị ấy ngồi trong thất niệm thần chú của vị ấy ví dụ với nữ thần
Tara là câu “OM TARE TUTARE TURE SVAHA”, tưởng tượng hình ảnh Ngài theo các
tượng tranh thường tạc vẽ, đang đứng ở chính giữa đàn tràng (mandala này có thể
treo trên vách hay đặt giữa nền nhà vừa tầm mắt nhìn). Nhiều tháng, cả năm trôi
qua trong sự trì chú và quán tưởng hình tượng một cách nghiêm mật. Thỉnh thoảng
vị thầy sẽ hỏi thăm tiến trình tu tập của hành giả. Cuối cùng sẽ có một lúc
hành giả thông báo cho vị thầy kết quả sự quán tưởng của mình: đức Bồ tát đã
xuất hiện giữa đàn tràng, nhưng rất mờ ảo, và chỉ trong một lúc thì tan biến.
Vị thầy khen ngợi đó là dấu hiệu tốt, hãy tiếp tục quán tưởng cho đến khi hình
ảnh hiện ra rõ rệt hơn, và kéo dài lâu hơn. Môn sinh trở về tiếp tục quán. Một
thời gian rất lâu về sau, vị ấy cũng đạt được kết quả mong muốn: ấy là, vị Bồ
tát đã xuất hiện rất rõ nét giữa đàn tràng, và thường như luôn luôn đứng đấy,
dán chặt tại chỗ, không tan mất như trước. Vị ấy sung sướng trình thầy kết quả
ở giai đoạn hai này. Nhưng thầy lại bảo, “Tốt lắm, song giờ đây con phải tiếp
tục quán tưởng và cầu xin Ngài ban ân phước cho con, bằng cách lấy tay rờ đầu
thọ ký, và nói với con những lời phủ dụ”. Thế là người môn đệ lại trở về với
công việc niệm chú và quán tưởng y như lời thầy chỉ dạy. Sau một thời gian, quả
thật những gì vị ấy cầu mong đều thành tựu: Bồ tát lấy tay sờ đầu mỗi khi y cúi
lạy, và đôi mắt Ngài trở nên linh động, môi mấp máy ban lời phủ dụ, làm cho
hành giả vô cùng hân hoan, tưởng đã đạt mục đích của sự quán tưởng. Nhưng khi
trình lên thầy kết quả này, ông ta lại đòi hỏi một bước kế tiếp, là hãy trở về
quán tiếp cho đến khi thấy vị Bồ tát bước ra khỏi đàn tràng, đi lui đi tới
trong am thất của hành giả. Đây là giai đoạn nguy hiểm nhất trong việc tu tập,
khi một vị thần bước ra khỏi đàn. Vì khi ra khỏi đàn, là có nghĩa vị ấy không
còn bị trói buộc. Nếu là hung thần, thì sự bước ra khỏi đàn như vậy sẽ làm cho
hành giả nguy khốn, vì thần ấy khi được tự do sẽ phẫn nộ trừng phạt hành giả đã
giam giữ ông ta. Trừ phi cao tay ấn, đa số người tu mật tông bị chết hoặc điên
loạn ở giai đoạn này. Bởi thế, không bao giờ nên để cho một vị thần bước ra
khỏi giới hạn đã dành cho vị ấy.
Nhưng ở trường hợp này, vị thần chính là đức Bồ tát
đầy lòng bi mẫn, và đã tỏ dấu đặc biệt yêu mến đối với hành giả, do vậy không
hề gì. Ngài ung dung tản bộ qua lại trong am thất như tại nhà riêng của Ngài
vậy. Đôi khi Ngài còn bước ra khỏi ngưỡng cửa am thất để thở hít khí trời nữa
chứ. Khi trình lên thầy thành quả ấy, vị thầy rất hài lòng, nhưng còn đề nghị
đệ tử tiến thêm một bước nữa: Hãy hỏi xem Ngài có bằng lòng cùng y xuống phố
dạo chơi một vòng chăng.
Đây là giai đoạn khó nhất, bởi vì ở trong bóng mờ
của am thất với khói hương nghi ngút, thì hành giả hầu như có thể nhìn thấy và
sờ thấy vị thần được, do ảnh hưởng sự tập trung quán tưởng lâu ngày. Bây giờ ra
khỏi khung cảnh quen thuộc, bước vào một môi trường hoàn toàn xa lạ dưới ánh
sáng mặt trời, thì liệu ảo giác còn đứng vững được chăng? Bởi thế, phần đông
những người tu tập phải dừng lại ở giai đoạn này: vị Bồ tát từ chối, không chịu
đi ra bát phố mà chỉ bằng lòng ở lại trong bóng mờ của am thất. Nhiều vị thần
đến giai đoạn này, khi bị rủ đi ra ngoài ánh sáng, đã tỏ ra phẫn nộ và trừng
phạt hành giả vì thái độ hỗn láo của y, dám rủ thần ra ngoài chơi. Bởi vậy, có
nhiều người tu quán đến giai đoạn này bị điên loạn, ngay cả tự sát. Nhưng cũng
có một số–rất ít–đã thành công, và vị Bồ tát đi theo y mọi nơi mọi lúc. Khi
trình lên thầy thành quả sau cùng này, vị thầy vỗ về: “Rất tốt, thế là ngươi đã đạt mục đích. Ngươi đã được sự che chở của một
vị thần linh cao cả hơn ta muôn vàn”. Ở giai đoạn này, khi nghe thầy dạy
như thế, một vài người cảm ơn thầy, phấn khởi trở về am cốc và dành suốt thời
gian còn lại của đời mình để sống với ảo tưởng đó. Nhưng có một số rất ít bỗng
quay trở lại, kinh hoảng thú thật với thầy rằng, mặc dù luôn luôn được sự che
chở như thế, mà y vẫn cảm thấy dường như đấy chỉ là một cái gì do chính tâm y
tạo ra, không thực có ở bên ngoài. Vị thầy tỏ vẻ buồn sầu về sự thổ lộ của y,
khuyên y nên về bắt đầu tu tập trở lại, để xét lại sự hoài nghi ghê gớm ấy một
thái độ phạm thánh, vô ơn bạc nghĩa đối với vị thần đã phù trợ cho mình như
thế.
Người môn đệ nghe lời thầy, trở về xét lại thái độ
hoài nghi của mình. Nhưng một khi đã hoài nghi thì cố mà tin trở lại cũng vô
ích. Đa số tôn giáo thần quyền đến giai đoạn này thường bế tắc người hành giả
một khi đã mất tin tưởng ở sự thực hữu của vị thần thánh mà mình đã tôn thờ
suốt cả cuộc đời thì chỉ còn nước tự sát, hoặc bỏ đạo hoàn tục để sống một đời
phóng đãng như một thái độ trả thù.
Người môn đệ mật tông có thể không tin sự thực hữu
của vị thần linh, nhưng không bao giờ hoài nghi sự minh triết của thầy mình.
Bởi vậy y trở về tiếp tục quán sát. Sau một thời gian, y trở lại thú thật với
thầy rằng không còn hoài nghi gì nữa, điều chắc chắn trăm phần trăm là, vị Bồ
tát ấy chính do tâm y đã tạo ra. Hình ảnh vị ấy đều do ý muốn của y dẫn dắt.
Khi ấy vị thầy mới bảo, “Chính như vậy đó, con cần phải nhận ra. Mọi sự trên
thế gian, thiên đường, địa ngục, thần thánh, ma quỷ, đều là ảo tượng do tâm tạo
mà thôi. Chúng tuôn phát từ tâm, và cũng tan biến vào tâm”.
IV. KẾT
LUẬN
Sự vận dụng trí tưởng tượng trong mật tông cốt nhắm
đến sự thấy rõ chân lý “nhất thiết duy tâm
tạo”, để đừng bị kẹt trong các hiện tượng phù du của cuộc đời, và có thể
làm chủ, sai khiến được vật chất. Nhưng cũng có khi một vật do người tạo trở
lại hại chính người đã tạo ra nó, như máy móc tối tân, hóa chất hay vũ khí
nguyên tử ngày nay. Trong khi tu quán, không thiếu gì những trường hợp người tu
bị ám bởi chính những bóng ma do mình tự tạo. Những thần linh vị ấy đã quán ra
đôi khi vượt ngoài tầm kiểm soát của hành giả, như chim sổ lồng, tự tung tự
tác. Bà Alexandra David-Neel có lần muốn thử năng lực của tâm, đã quán một hình
ảnh hoàn toàn không có trong các tượng tranh, đó là một lạt ma mập, vui vẻ,
thấp người. Sau một thời gian, quả nhiên một vị như vậy xuất hiện giữa đồ hình
mandala. Y trở nên sống động tới nỗi người hầu đem trà vào cho bà cũng thấy
được hình bóng một tu sĩ lùn mập vui vẻ đang ngồi trong am thất. Một thời gian
sau, hình ảnh ấy biến đổi, gầy bớt, cao hơn trước, và bắt đầu làm những việc
quấy phá. Dù khi bà muốn ở một mình, y vẫn hiện lù lù trước mặt không thể nào
xua đuổi được. Bà phải mất sáu tháng nỗ lực mới làm tan biến hình ảnh vị lạt ma
quấy rầy nọ. Như thế, những gì do tâm tạo cũng có thể vượt ngoài tầm kiểm soát
của tâm, và tự tung tự tác một cách ngang tàng đến nỗi tâm cần rất nhiều nỗ lực
mới xua đuổi được. Mật tông có thể được xem như một thứ khoa học tâm linh và
cũng có những nguy hại như khoa học vật chất, ở trong tay người lạm dụng nó.