Do chủ trương nầy, chư thiền sư đã diễn tả quá
trình tu tập bằng những bức tranh chăn trâu, mà người hành giả có thể nương vào
đó để thâm nhập đạo mầu. Tranh chăn trâu có nhiều loại, loại sáu bức cổ nhất đã
thất truyền, loại được truyền tụng nhiều nhất là 10 bức tranh chăn trâu kèm
theo thi kệ dẫn giải của thiền sư Quách Am. Để có một nhận định về quá trình tu
tâm, xin quý vị tự chiêm ngưỡng tranh, tụng kệ hướng dẫn và suy gẫm. Các bài kệ
dẫn giải, trừ bài 3 và 4, đều trích dẫn từ bản dịch của hòa thượng Quảng Độ.
Ngoài ra, tác giả mạo muội đóng góp phần lý giải ngắn gọn bằng sự hiểu biết thô
thiển của mình, tác giả rất mong được những bậc cao nhân chỉ giáo, những điểm
lầm lạc.
* Tranh 1: Tìm trâu (tầm ngưu):
Kệ: Nước biếc non xanh nhuộm một mầu
Um tùm lối cỏ biết tìm
đâu?
Hơi tàn chân mỏi, hồn hiu
quạnh
Chiều xuống ve kêu gợi
nỗi sầu.
Lý giải:
Hành giả biết tu là điều phục
tâm, nhưng tâm là cái gì? trốn ở đâu? làm sao ta tìm ra được để điều phục? Hắn
nhọc lòng tìm tâm trong cuộc đời, trong chùa chiền, trong rừng kinh điển, nhưng
tâm là thứ không có ngữ ngôn nào mô tả nỗi, nên càng tìm kiếm bên ngoài, hắn
càng phân vân chẳng biết đâu là đầu mối!
* Tranh 2: Thấy dấu chân trâu
(kiến tích):
Kệ: Ven suối bìa rừng in dấu chân
Hỏi tin hoa lá đứng tần
ngần
Trời xa, ráng nhạt mờ
sương khói
Núi thẩm rừng sâu một
chiếc thân
Lý giải:
Nhờ kinh điển, thầy bạn hướng
dẫn, hắn bắt đầu hiểu là phải tự tìm kiếm
tâm ở bên trong. Tranh vẽ hành giả hăng hái tìm trâu một mình không còn cảnh
bên ngoài. Vọng tâm (tức con trâu) vô hình khó thấy bóng dáng, nhưng nhờ biết
quan sát hắn bắt đầu khám phá được những dấu vết mà con trâu tâm còn để lại
trong cuộc đời. Tâm tham, tâm sân, tâm thương ghét... biến dạng, nhưng dấu vết
tai hại, những đổ vở chua xót do nó gây ra vẫn còn lưu lại đâu đó. Đầu mối của
con trâu tâm đây rồi, sự nghiệp chăn trâu cũng bắt đầu từ đây.
* Tranh 3: Thấy trâu (kiến
ngưu):
Kệ: Trên cành ríu rít tiếng vàng anh
Liễu xanh nắng ấm gió
mong manh
Bóng trâu thoáng thấy đâu
dễ trốn
Đầu sừng rối rắm vẽ không
thành.
(tác
giả phỏng dịch)
Lý giải:
Đến đây, người hành giả, nhờ
tiếp tục quan sát mình đã thấy được phần nào bóng dáng của vọng tâm, hắn có thể
chợt thấy tâm sân, tham... của mình còn chất chứa trong lòng, nhưng khi tâm
tham, tâm sân đó khởi đầu xuất hiện thì hắn chưa đủ khả năng khám phá. Tranh vẽ
trâu chỉ mới thấy phần đuôi, còn phần đầu và sừng theo kệ của thiền sư Quách Am
rắc rối quá nên vẽ không thành.
*Tranh 4: Được trâu (đắc ngưu):
Kệ: Trăm đường mới chộp được mi
Cứng đầu hăng tiết chưa
qui thuận nào
Thoảng khi lỡ bước đồi
cao
Mãi mê mây nỗi dạt dào
buông lung
(phỏng
theo Tuệ Sỹ)
Lý giải:
Trâu bao giờ cũng vậy, chẳng hề
trốn đi đâu, chỉ vì ta không biết quán sát, nên tưởng là mất trâu và phải đi
tìm. Trâu đã hiện nguyên hình nhưng vẫn còn quen thói hoang đàng ngang bướng,
do đó, phải dùng giây xỏ ngàm, canh giữ nghiêm nhặt và dùng roi vọt trừng trị,
thì mới tránh việc sơ sẩy, trâu vuột giây vàm gây tai họa. Hành giả đã quán
thấy niệm khởi thì phải cố gắng cột “trâu tâm” một chỗ (giây vàm) không để tâm
lăng xăng loạn động, việc làm nầy phải được hỗ trợ bằng giới (roi), và sự
chuyên cần tinh tấn (tay cầm giây vàm, mắt đăm đăm nhìn)... Giai đoạn xỏ mũi
trâu và dạy dỗ trâu tuy chỉ mô tả bằng một bước tranh nhưng những kẻ tu hành
mấy mươi năm, mấy ai giữ tâm đứng yên một chỗ, trong khi đó, chỉ một phút lơ
là, thì vọng tâm đã vùng lên lăng xăng sinh khởi như cũ. Nội dung kệ “đắc ngưu”
câu 3 và 4, thiền sư Quách Am đã nhắc nhở chúng ta điều đó.
* Tranh 5: Chăn trâu (mục ngưu):
Kệ: Sợ quen đường cũ lại đi hoang
Từng phút, từng giây phải
buộc ràng
Đến một ngày kia nên
thuần thục
Tha hồ trời rộng bước
thênh thang.
Lý giải:
Tuy vẫn cần dẫn dắc, giây vàm
và roi cầm tay, nhưng trâu tương đối đã thuần, đầu không còn nhìn ngược xuôi
toan tính chuyện buông lung phá hại ruộng lúa của người.
Sở ngộ của thiền sư Đại An núi
Qui có lẽ tương ứng với giai đoạn cuối cùng của bức tranh nầy. Thiền sư tuyên
bố: “Sở dĩ Đại An nầy ở tại núi Qui 30 năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui,
mà không học thiền núi Qui, vìø chỉ làm công việc coi chừng trâu mà thôi. Nếu
nó lạc đường hay vào trong cỏ bèn lôi nó lại, nó ăn lúa mạ của người liền đánh
đập nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành trắng đứng
trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi”. Ở đây, trâu tâm đã thuần,
đứng yên, nhưng chưa mềm mỏng để ung dung cỡi về nhà...
* Tranh 6: Cỡi trâu về nhà (kỵ
ngưu quy gia):
Kệ: Cỡi trâu lững thững trở về nhà
Tiếng địch chiều thu tiển
ráng xa
Bát ngát bốn bề hương
trầm tỏa
Tri âm nào biết cõi lòng
ta.
Lý giải:
Trâu hoàn toàn thuần phục thì
giây vàm và roi không còn cần thiết, mục đồng thông thả ngồi trên lưng trâu
thổi khúc sáo đồng, an vui trở về nhà. Khi vọng tâm đã được điều phục thì công
phu và giới luật cũng không cần thiết nữa, chư thiền sư có thể phát ra ngôn ngữ
và hành động lạ lùng, tưởng như ra ngoài giới luật, mà thật ra tâm họ vẫn an
nhiên không vọng động. Cỡi trâu về nhà nghĩa là trở về với chính mình, không
còn nương vào ngoại cảnh để điều phục tâm nữa, nên tranh vẽ chỉ có người và
trâu, không cảnh vật. Trở lại tranh số 5 mục ngưu, ta thấy có vẽ ngoại cảnh vì
trong giai đoạn chế phục tâm nầy, hành giả cần phải nhập chúng và liên hệ với
xã hội..., có chung đụng thì hành giả mới giảo nghiệm xem tâm mình có còn bị
trần cảnh lung lạc không?
* Tranh 7: Quên trâu còn người
(vong ngưu tồn nhân):
Kệ: Cỡi trâu giờ đã đến nhà rồi.
Roi gác, trâu buông, ngủ
thảnh thơi
Rực rỡ vừng hồng còn dệt
mộng
Trong gian nhà cỏ, một
mình thôi.
Lý giải:
Về nhà rồi, buông bỏ roi, giây
vàm, buông bỏ trâu, người mục đồng thảnh thơi nằm ngủ. Do tâm khởi vọng nên mới
thấy được tâm, một khi tâm không khởi vọng nữa thì bóng dáng tâm cũng biến mất.
Nếu không khởi vọng mà bóng tâm vẫn còn, chỉ vì ta chấp tâm vọng là “có”ù chưa
chịu buông bỏ nó. Trở về nhà tức quán chiếu tự tâm, để thấy vọng tâm không thật
nên buông bỏ thì bóng trâu tâm đương nhiên mất dạng. Ta nên lưu ý là hành giả
phải buông bỏ tâm ác và cả tâm thiện nữa, vì thiện vẫn là vọng chớ chưa là
chơn. Tổ Nam Tuyền đi thăm trang trại dưới núi thấy trang chủ đã sẵn sàng chuẩn
bị để đón rước, hỏi lý do thì trang chủ thưa: “Hôm qua có thổ địa mách nên biết
hôm nay Hòa thượng đến”. Tổ Nam Tuyền than: “Thầy già họ Vương nầy tu hành vô
lực bị quỷ thần thấy tâm”. Thiền sư Đạo Ưng ở Nam Phong được thiên thần cúng
dường, nhưng lại bị tổ Động Sơn khiển trách là vẫn chưa được kiến giải. Buổi
chiều Đạo Ưng đến tham vấn thì Động Sơn gọi: “Ưng am chủ”. Đáp “Dạ”. Động Sơn
bảo: “Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là gì?”. Đạo Ưng trở về am ngồi lặng lẽ,
Thiên thần tìm mãi không thấy, trải ba ngày như thế mới thôi cúng dường. Lắm
khi con trâu tâm tưởng đã biến mất hẳn rồi, nhưng khi đối cảnh, nhất thời cũng
hiện trở ra. Xin đơn cử trường hợp Ngài Động Sơn Lương Giới như sau: Một hôm tổ
thấy cơm gạo bị rơi rớt tại nhà bếp, nên cất tiếng rầy dạy đệ tử “Của đàn na
thí chủ không nên hủy hoại”. Ngài vừa dứt lời, bỗng có vị thần hiện ra, quỳ
trước mặt. Ngài hỏi “Oâng là ai”. Thần thưa “Con là thần Thổ địa, trong ba mươi
năm nay con chỉ nghe tiếng nói của Ngài, nay nhờ Ngài rầy đệ tử mới thấy được
Ngài, nên vội xin yết kiến”. (Trong 30 năm, tâm tổ lặng lẽ an nhiên quỷ thần
không thấy được Ngài, khi tổ động tâm rầy đệ tử hủy hoại của tín thí, quỷ thần
mới thấy được)
Tranh nầy có lẽ phản ảnh đúng
theo sở đắc và tâm trạng của Thần Quang khi Ngài thỉnh cầu Đạt Ma tổ sư dạy
“phép an tâm”: Đạt Ma bảo “Đưa tâm đây ta an cho”, Thần Quang ngần ngừ rồi đáp
“Con kiếm mãi chẳng thấy tâm đâu”. Tổ dạy “Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi
đó”. Thần Quang liền ngộ đạo. (Thần Quang dày công tu tập không tạo nghiệp,
không khởi tâm thiện ác... nhưng bóng vọng tâm vẫn còn lảng vảng chỉ vì chưa
buông bỏ, và do đó tâm không an. Khi được Đạt Ma hỏi, sư sực tỉnh nên quán sát
kỹ, buông bỏ, bóng dáng vọng tâm biến mất và được an tâm).
* Tranh thứ 8: Người trâu đều
quên (nhân ngưu câu vong):
Kệ: Trâu, người, nhà, cỏ thảy đều không?
Lồng lộng trời xanh tin
chẳng thông
Sợi tuyết trên lò đang
rực lửa
Đến được đấy rồi hợp tổ
tông.
Lý giải:
Vọng tâm biến dạng thì chân tâm
hiển bày. Đây là chỗ mà chư tổ chứng ngộ, “kiến tánh” thấy rõ bản lai diện mục
vô thủy vô chung,”bổn lai vô nhất vật”, là lãnh vực vô ngôn, không thể nghĩ
bàn, không mô tả được... nên chỉ tạm tượng trưng bằng một vòng tròn.
Tranh nầy có lẽ phản ảnh đúng
theo sở ngộ của Ngài Huệ Năng. Khi vừa nghe ngũ tổ giảng đến câu kinh Kim Cang
“Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ngài liền bạch với thầy mình: “Đâu ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh
vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lai động! Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn
pháp”.
Cũng chỉ nằm trong phạm vi bức
tranh nầy thôi, nhưng chỗ sở đắc của chư thiền sư có mức độ nông sâu rất rõ
rệt. Thí dụ điển hình là câu chuyện trình sở đắc của môn đồ Ngài Đạt Ma:
- Ni Tổng Trì đã thấy tự tánh
một lần, rồi không thấy nữa, nên có thể hiểu là mới đến ngưỡng cửa chớ chưa
thật sự bước vào.
- Ngài Đạo Dục thực sự bước vào
thấy được phần chân không nhưng chưa thực sự tiếp xúc diệu hữu, nên cái thấy
vẫn còn giới hạn ở chỗ “bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có...”
- Riêng Ngài Huệ Khả đã đạt đến
chỗ cùng tột không thể nghĩ bàn nên mới lặng lẽ lễ tổ Đạt Ma, rồi đứng qua một
bên để trình sở đắc của mình.
Trong bộ tranh chăn trâu, tranh
vẽ Vòng tròn thuở mới xuất hiện có tên là “Vòng tròn Viên Giác”, sau mới đổi
lại là “Người trâu đều quên” cùng một lượt với sự xuất hiện của tranh 9 và 10.
Xin xem phần bổ túc trong dấu ngoặc nếu thấy cần thiết.
(Ghi chú sơ lược về sự xuất
hiện tranh 9 và 10: Tranh chăn trâu cổ xưa nhất có 6 bức, rồi bổ túc thêm lần
lần thành 10 bức do nhiều tu sĩ đại thừa khác tông phái sáng tác. Dù sáu hay
mười thì bức tranh chót cũng vẽ một vòng tròn tượng trưng cho sự viên giác. Đến
thế kỷ thứ 12, thiền sư Quốc Aán, giòng Lâm Tế cho rằng tranh chấm dứt với vòng
tròn Viên Giác dễ khiến cho thiền sinh lầm lẫn dừng lại nửa đường, nên mới sáng
tác thêm hai bức 9 và 10. Từ đó, tranh chăn trâu thiền tông mang một sắc thái
riêng, so với tranh chăn trâu đại thừa.
Vòng tròn Viên Giác của tranh
xưa tượng trưng cho Pháp tánh, chân tâm diệu minh, là chân lý tuyệt đối không
thể nghĩ bàn, là cứu cánh tột cùng chư Phật mà bậc toàn giác thể nhập. Thế
nhưng, vì thiền tông chủ trương “thấy tánh thành Phật”, tôn sùng quá khích
thông điệp “kiến tánh”, nên có một số thiền sinh đạt kiến tánh, dù chỉ trong
nhất thời, cũng tự mãn là đã hoàn thành sự nghiệp tu tập, và đó là một sự lầm
lẫn lớn, vì sau khi “ngộ” (kiến tánh) thì phải đến giai đoạn “sống thực” (nhập)
với cái mình đã ngộ. Đó là lý do thâm sâu mà Vòng tròn Viên Giác được cải sửa
thành Vòng tròn “trâu người đều quên”, kèm theo hai tranh 9 và 10).
* Tranh 9: Về nguồn (phản bản
hoàn nguyên):
Kệ: Tìm lối quay về những uổng công
Nào biết xưa nay lý vốn
không
Trước mắt bao la nhưng
chẳng thấy
Hoa cười tươi thắm, nước
mênh mông.
Lý giải:
Kiến tánh nghĩa là thấy rõ chân
tâm từ vô thủy đến nay vốn thanh tịnh, hồn nhiên rổng lặng, không sanh không
diệt, rằng Phật, ta và pháp giới chúng sanh, hữu tình và vô tình đồng một thể (tình
dữ vô tình đồng viên chủng trí). Cổ đức thường mượn “hoa vàng trúc biết” để chỉ
cho chân tâm diệu minh, nhưng đúng ra thì vạn vật muôn loài dù nhỏ nhoi ti tiện
như côn trùng, như hòn sỏi, hạt bụi... tất cả cũng đều là ảnh tượng của chân
tâm cả. Cho nên “về nguồn” (tranh 9) là về với thiên nhiên trời đất, “thỏng tay
vào chợ” (tranh 10) là về với chúng sanh, cả hai đồng mang ý nghĩa là hội nhập
với chân tâm, với chính mình.
Tóm lại, Về nguồn nghĩa là hội
nhập hài hòa với trật tự thiên nhiên, “vào rừng không khua lá, vào nước không
quậy sóng (nhập lâm bất động thảo, nhập thủy bất lập ba)”, tiếp xúc vạn vật
bình thường mà cũng rất trang trọng. Hành giả cũng thấy “núi chỉ là núi, nước
chỉ là nước”, nhưng vạn vật ở đây sinh động sáng ngời vì tất cả đều ảnh hiện từ
chân tâm diệu minh.
Đây có lẽ chính điều mà Tổ Thanh
Nguyên Duy Tín mô tả: “Sãi tôi, ba mươi năm trước, khi chưa học thiền, thấy núi
là núi, thấy nước là nước; sau nhân theo bậc thiện tri thức chỉ cho chỗ vào,
thấy núi chẳng là núi, thấy nước chẳng là nước. Rồi nay sau khi thể nhập chốn
yên vui tịch tĩnh y nhiên, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.
(Có vị cho rằng tranh Về nguồn
có nghĩa là nhập pháp giới, nhưng thiết nghĩ nhập pháp giới là cảnh giới của
chư Đại Bồ Tát; trong phạm vi 10 bức tranh chăn trâu hành giả vẫn tiếp tục điều
phục tâm nên chưa thong dong tự tại đến mức đó)
* Tranh 10: Thõng tay vào chợ
(nhập thị):
Kệ: Mình trần lem luốc cười ha ha
Ngất ngưởng rong chơi
chốn chợ xa
Phép lạ thần thông không
màng tới
Cây cỗi, cành khô khiến
trổ hoa.
Lý giải:
Thỏng tay vào chợ nghĩa là hội
nhập với thế tục, vào chỗ bụi trần mà không nhiễm ô, tự tại nhưng lại rất bình
thường mà hòa hợp với kẻ thế tục: thân mật “đánh bạn với bạn hàng thịt, với bọn
trộm cắp, đĩ điếm”, họ và mình không khác, họ “đều là Phật kia mà”. Ơ Ûđây
người hành giả, tùy duyên tùy hoàn cảnh mà hội nhập vào giòng đời để hóa độ
người, vừa có cơ hội điều phục những vọng niệm vi tế còn sót lại: “Tùy duyên
tiêu cựu nghiệp. Nhậm vận trứớc xiêm y” (Tổ Lâm Tế).
Hành hoạt của nhị tổ Huệ Khả
sau khi đắc pháp là thí dụ điển hình. Nhị tổ ẩn hình dười dáng người hạ lưu
cùng khổ, đánh bạn với bọn đầu đường xó chợ một cách hồn nhiên vui vẻ. Có vị tu
sĩ trách:”Oâng là đạo nhân sao như thế được”. Tổ đáp: “Ta tự điều tâm ta, có gì
dính líu đến ông mà hỏi?”. Về sau, tổ bị vu cáo, bị tù tội và chết trong ngục
tù, nhưng lúc nào tổ cũng ung dung hội nhập vào cuộc đời, coi ngục tù là đạo
tràng để độ người và cũng để tiêu trừ nghiệp cũ của mình.
Tóm lược:
Quá trình tu tâm phát họa bởi
10 tranh chăn trâu có thể phân thành 3 giai đọan:
- Giai đoạn hướng ngoại “khiến
Phật đi tìm Phật, dùng tâm để biết tâm” (tổ Hy Vận): thấy dấu vết của tâm, thấy
lỗi thấy nghiệp của mình, và dùng “giới” để điều phục tâm (tranh 1 đến 5).
- Giai đoạn hướng nội “đem tâm
trở về với tâm” (tranh 6 và 7: cỡi trâu về nhà, quên trâu còn người) hầu đạt
đến cứu cánh là sự kiến tánh, tức thấy “tâm chính là vô tâm” (người trâu đều
quên, tranh 8).
- Giai đoạn hướng ngoại hội
nhập với thiên nhiên (tranh 9) và thế tục (tranh 10) bằng “tâm bình thường” để
thực sự sống với cái “tâm không tâm”.