Các hãng tin như AP, Reuter các báo như News Week, Time...
đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả những khám phá của các nhà khoa học
Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởng từ hoạt động của bộ não các
Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều mà trước đây, khi nói đến hầu hết
mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là những cảm giác có được do phương pháp
tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.
Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại
học Duke ở North Carolina đã tuyên bố rằng: "Bây giờ, chúng tôi có thể
lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóng dáng các nhà sư có dáng
dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở những nơi như Dharamsala, Ấn
độ, là họ thực sự hạnh phúc".
Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên
cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng
oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở
não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. 7
năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi
sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều
sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm
giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi
phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt" thùy
đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở
thành một".
Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện
đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu
có thể chế phục được nhân hạnh đào (amygdale), một vùng não lưu trữ
những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá ra rằng những thiền sư cao cấp khó bị
chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổi giận như những người thường khác.
Tuyến thượng thận, mơi tiết ra Adrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các
trường hợp sợ hãi, hoảng hốt gần như được các Thiền sư khống chế hoàn
toàn. Ông tuyên bố trong một báo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New
Scientist) rằng: "Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền
của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu
cầu".
Các nhà khoa học đều tin chắc rằng Thiền định hoàn toàn có khả năng
"rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng
ách tắc. Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể
chữa được được các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và
đã có trường hợp thay thế cho Viagra! Những điều này thật ra không phải
quá cường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng
đều xuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thể
khỏe mạnh.
Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đã biết và dựa trên các
kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng ta thấy; bộ não con người
có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinh qua những đường dẫn
truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinh khác. Điều này dễ
hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khối lượng thông tin
khổng lồ của bộ não. Thế nhưng điều này cũng cho chúng ta hiểu câu nói
mà nhà Phật hay nói: "Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi". Một
tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra như trong
phản ứng hạt nhân! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hình thành. Các
bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trong chừng đó thời
gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều! Thường là không ít hơn 10 chuyện
nghĩ khác nhau!
Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng ta sử dụng
bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuối một cách
chẳng để làm gì .
Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏe mạnh. Ở người bị bệnh tâm
thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có một nhưng họ không thể dừng nó lại
được, nó cứ phát triển một cách bùng nổ và đến mức độ nào đó thì người
bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩ đều trở thành thật, và chúng ta
gọi họ bị bịnh điên. Những người trong trạng thái stress, cũng không dứt
ra được các tình cảm mà họ rơi vào. Điều này kéo dài sẽ đưa đến những
hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể. Có người thì bị tim mạch, người thì
đau dạ dày, người thì mất ngủ, suy nhược thần kinh, cơ thể...
Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biết rằng các ý nghĩ là
không có thật và không nên theo. Chúng ta đều biết dừng lại sau khi
"chạy" theo nó một đoạn. Điều này tuy bình thường nhưng các thiền sư thì
bảo đó là vọng tưởng. Cách gọi này không phải là không có lý ở góc độ
vô bổ, vô nghĩa. Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm
không cho nó khởi lên ngay từ gốc. Có phương pháp thì hướng sự tập trung
suy nghĩ vào chuyện khác như đếm hơi thở, theo dõi cơ thể trên từng
centimét vuông một, hoặc theo dõi một cách khách quan suy nghĩ của mình
không lơi lỏng, nghĩ cái gì là biết mình đang nghĩ cái đó; có phương
pháp thì tập trung suy nghĩ vào một công án, tức một câu hỏi gần như
không có lời đáp, ví dụ khuôn mặt ta khi cha mẹ chưa sinh ra là gì; có
phương pháp thì tập trung vào chuyện ngồi và biết mình đang ngồi, có
phương pháp như của Thầy Nhất Hạnh ở Pháp thì luôn nhẩm "Hít vào tâm
tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười"; có phương pháp như của thầy Thanh Từ ở
chùa Trúc Lâm Đà Lạt thì "Biết vọng không theo", gọi tắt là Tri vọng;
có phương pháp thì niệm chú hoặc nhún nhảy nhẹ nhàng theo một vũ điệu
nào đó... Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạt động của bộ não con
người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sự rỗng không.
Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùng khó. Theo bản năng,
bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khi đang ngủ. Trong kinh
Phật chúng ta đọc thấy câu "Chư Phật ngủ không mơ bao giờ!". Điều này
cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạt động khác
của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến..
Nhà Thiền có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn
quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh
thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà
có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi
đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được
ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời
nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này
ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất.
Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành
và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc
khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu
được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về
phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy
thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu
này".
Cũng như công án âm thanh của một bàn tay, công án "Ta từ đâu mà có" nếu
xét về mặt kiến giải thì có thể xếp vào loại nhận thức một quy luật của
tự nhiên. Triết học hiện đại gọi đó là quy luật vận động, vật chất là
luôn vận động, vận động là một thuộc tính của vật chất. Triết học hiện
đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộc tính của
vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm. Triết học
phương Đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm như vậy, các
khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con người có thể
mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quy luật có
tính toàn vũ trụ. Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cái quy luật
được chứng đắc ấy.. Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuối cùng luôn
là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ở Phật giáo đó là giác
ngộ, là Niết Bàn.
Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạt muối thả vào biển.
Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách. Chúng ta hãy thử giả định rằng
chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông với nhiều phép thần thông
tuyệt diệu, tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thể nhìn qua núi non biển
cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hào quang, tinh thần thông
suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóa làm gì cũng có thể hiểu
được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống trà với ổng mà không một chút
e ngại .v.v... thì lúc ấy, cơ thể ta sẽ như thế nào? Bởi vì các phép
thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vì cái đời sống tinh thần ấy
hầu như không thể hiểu được, không thể kiểm chứng, không thể xác nhận
nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác là xem lúc ấy cơ thể ta sẽ
như thế nào.
Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều rằng nó sẽ không giống với cái
cơ thể ta trước đó. Cái gì không biết chứ chắc chắn một điều là ta sẽ
chẳng có bệnh tật gì cả? Thật vô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết
áp, lớn tim, ho lao hoặc ung thư. Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp
tính như gãy xương, ruột thừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà
Đức Thế Tôn đã mắc phải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh
đến trong suốt. Bệnh gì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như
huyết áp, tim mạch, stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy
nhược, đau khớp, đái đường... sẽ không bao giờ mắc phải. Người đã mắc
phải, thì nếu giác ngộ xong bệnh này cũng sẽ biến mất.
Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnh trên xuất
hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có. Người giác ngộ thế nào không biết chứ
chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa. Cuộc sống của họ
là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây, từng phút, thì
hỏi làm sao huyết áp tăng cho được? Bệnh huyết áp là bệnh tây y bảo
không chữa được. Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng với những gì biết
được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ không bao giờ tăng
huyết áp. Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này.. Và kể từ đó ta
sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không bao giờ mộng mị.
Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghe Phật cũng bảo
rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ. Không có bất cứ một giấc mơ nào dầu
tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủ người giác ngộ.
Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băng trôi; cái phần lớn nhất,
quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìm dưới nước chưa được biết
đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy này chúng ta đã có thể tin rằng
nó rất thật..
Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng người trong một chốc giác
ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưa từng biết đến xảy ra
trong cơ thể mình. Nó rõ ràng như ngài Huệ Khả nói, "Nó thường biết rõ
ràng, ngôn từ nói không tới!". Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói
"Ai dè....", nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững,
húc đầu vào cột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó.
Thiền sư Vô Môn Huệ Khai sau sáu năm miên mật, một ngày nọ khi nghe
tiếng trống báo giờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ
sau: Trời quang mây tạnh sấm dậy vang lừng. Mọi vật trên đất, mắt bỗng
thấy hết. Muôn hồng nghìn tía cúi đầu làm lễ. Núi Tu-di cũng nhảy múa
vui mừng. Sư được Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác
biệt của mình trong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh
như thế, sấm dậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là
những cảm giác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn
toàn không có một chút nào của tâm thức. Nó không giống như Archimede
hoặc Newton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai
biến mạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.
Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ, niết bàn hay địa
ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buông xả, ngã hay vô ngã,
thế giới vật chất là thường hay vô thường... nào có gì quan trọng! Mỗi
phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho. Các phép thần thông cũng
đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là một thần thông tuyệt diệu
nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy tai ta sẽ nghe tất cả âm
thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đến điệu nhạc disco inh tai
nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lên đến âm thanh của các vì
tinh tú xa xôi. Năm 761 vua Túc Tông nhà Đường thỉnh Huệ Trung đến kinh
đô phong làm Quốc sư. Suốt trong lần yến kiến vua đã hỏi ông nhiều câu,
tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần. Vua giận mới bảo: "Trẫm là
Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm?".
Huệ Trung trả lời: "Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng?". "Có".
"Hư không có nháy mắt với bệ hạ không?". Cái tâm thế hoàn toàn không
thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồng với vũ trụ, hòa với cỏ cây
rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý học hiện đại hoàn toàn chưa biết
đến.
Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắc chắn là ta sẽ nghe
rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta. Chính đây là bí ẩn của
các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giây phút mình ra đi và tất cả
đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơi xa cách, ở trạng thái này
thì cái chết và cái sống không hề có phân biệt. Hay một điều là nó
không cần đến một chút nào của ý thức để xác tín điều đó. Chúng ta,
người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết, chuẩn bị cho cái chết,
xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cái chết như đang sống mà
không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ở người giác ngộ .
Tóm lại, đó vẫn là chuyện... như là chúng ta xem phim khủng long! Tất cả
dựa trên một ít "xương cốt" hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế
nào, kêu rống thế nào thì chẳng ai biết. Các nhà khoa học đang tìm cách
tái sinh nó. Giác ngộ cũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Di Lặc xuất
hiện mặc dầu tinh thần Phật giáo không xem điều đó làm trọng.
Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giá trị của mặt bên kia
trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, không hoạt động nhưng lại vô
cùng tỉnh thức. Con người đã nghĩ ra hằng trăm phương pháp thể dục cho
cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục cho tinh thần thì hầu như chưa
ai nghĩ đến. May sao con người đã có phương pháp thiền định từ hơn 2500
năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhận nhiều điều nhưng cuối cùng
chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cực cho cuộc sống và văn minh
nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.
Theo: Tia sáng