Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ
tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập
thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để
cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng
Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch
tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do
nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II
(Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
Công án thứ nhất
Cử : Thế Tôn chưa rời cung Đâu Suất đã giáng sinh vương
cung, chưa ra khỏi mẫu thai đã hoàn
tất sự nghiệp cứu độ
Niêm : Gươm kích chưa vung, tướng quân đã để lộ tung tích.
Tụng : Đứa bé hình hài chưa có ấy
Nửa đêm
đưa dắt người đồng hương
Rong
chơi khắp biển trời lồng lộng
Không
cần phao nổi, không đò giang.
Công án thứ hai
Cử : Thế Tôn khi sơ sinh, một tay chỉ trời một tay chỉ đất:
“trên trời dưới đất, duy ta độc
tôn”.
Niêm : Một đám bạch vân qua cửa động
Bao
nhiêu chim chóc lạc đường về
Tụng : Vì muốn giáng sinh cung Tịnh Phạn
Độ sinh
nên phải lộ hành tung
Bảy bước
chân đi, trời đất chỉ
Biết bao
Phật tử táng gia phong.
Công án thứ ba
Cử : Thế
Tôn cầm đóa hoa đưa lên, Ca Diếp mỉm cười.[1]
Niêm : Dương đôi mắt ra mà nhìn: tư duy đàm thuyết phía trước
còn cách nghìn dãy núi.
Tụng : Thế Tôn tay nắm một cành hoa
Ca Diếp
hôm nay trở lại nhà
Nếu gọi
đó là “truyền pháp yếu”
Con
đường Nam Bắc hẵng còn xa
Công án thứ tư
Cử : Có
nhà triết học ngoại đạo [2] đến tham vấn Phật, nhưng không
muốn nghe danh từ hữu cũng không
muốn nghe danh từ vô.
Niêm : Trừ là con cái trong nhà ta, còn ai lại dám đi vào chốn
ấy nữa.
Tụng : Cửa lao khôn buộc, nào ai biết
Ngôn ngữ
mất rồi, níu tựa đâu?
Chẳng
phải ngựa hay trên cõi thế
Bỗng
dưng sao có được cơ mầu?
Công án thứ năm
Cử : Thế Tôn vừa bước lên pháp tọa, Văn Thù đánh khánh
bạch: “Hãy lắng nghe pháp của Pháp Vương: Pháp của Pháp Vương là như thế”.
Niêm : Gẩy khúc Dương Xuân trên chỗ không có tơ đồng, ngàn đời
sau âm thanh mãi còn bất tuyệt.
Tụng : Tuy nói nên lời không dấu vết
Sừng dấu
đuôi còn để ló ra
Nâng một
cành tiêu không có lỗ
Vì
ngươi, thổi khúc Thái Bình Ca
Chú thích:
[1].
Ca Diếp, Mahakasyāpa, là một trong
mười vị đệ tử của Phật. Một hôm trên đại hội Linh Sơn,
Phật cầm một cành hoa nhìn đại chúng không nói năng gì. Tất cả đại chúng đều
giữ im lặng. Duy có Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng,
niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phú chúc cho Ma
Ha Ca Diếp”.
[2].
Một nhà triết học ngoại đạo tới
hỏi Phật; nhưng không muốn
nghe về hữu mà cũng không muốn nghe về vô. Phật ngồi yên lặng hồi lâu trên pháp
tọa, không nói năng gì. Nhà triết học khen ngợi: “Đức Thế Tôn đã phá tan màn
mây vô minh khiến cho tôi thấy được chân lý”. Nói rồi làm lễ Phật và rút lui. A
Nan hỏi Phật: “Người ngoại đạo đó đã chứng
được gì? Tại sao ông ta làm lễ Phật rồi bỏ đi?” Phật nói: “Con ngựa hay chỉ cần
thấy bóng của cây roi là đã chạy rồi”.
Công án thứ sáu
Cử :
Tần Quốc Vương cầm kiếm gọi Tôn Giả, Tổ thứ 24, hỏi rằng: “Sư chứng được pháp uẩn không chưa?” Tổ nói:
“Chứng”. Vua hỏi: “Lìa sinh tử chưa?” Tổ nói: “Lìa”. Vua hỏi: “Có bố thí cho ta đầu Sư được
không?” Tổ nói: “Thân còn không phải
là của ta, huống là đầu”. Vua bèn chém. Sữa trắng tuôn lên. Tay
vua tự rớt xuống.
Niêm : Gươm trắng kề đầu tướng, như chém gió mùa
Xuân.
Tụng : Trên nước sáng lòe gươm báu chém
Trở ngại
điều kia chẳng có gì
Xin biết
hôm nay rời khói sóng
Ai hay
riêng lại có tư duy.
Công án thứ bảy
Cử : Đạt Ma đại sư tới Lạc Dương núi Thiếu Thất, chín
năm ngồi xoay mặt vào vách.
Niêm : Mở mắt nhìn cho tỏ, đừng có mê ngủ.
Tụng : Chim bằng liệng cánh về Nam Hải
Chỉ uổng
công lao vạn dặm đường
Đêm
trước vì tham ăn tiệc sướng
Sáng nay
say ngủ khó hồi dương.
Công án thứ tám
Cử : Nhị tổ xin Đạt Ma an tâm giùm. Đạt Ma nói: “Đem tâm tới đây ta an cho”. Nhị tổ đáp: “Tìm tâm mãi không đặng”. Đạt Ma nói:
“Thế là ta an tâm cho ngươi rồi”.
Niêm : Đứa trẻ lên ba thì múa trống, ông già tám chục
lại chơi cầu.
Tụng : Tâm đã là không, nói với ai?
Hồn
nhiên đâu lúc ở bào thai?
Lão tăng
nói khoác: “An rồi đó”
Lừa kẻ
bàng quan mà không hay.
Công án thứ chín
Cử : Văn Thù thấy một phụ nữ tọa tam muội một bên Phật. Văn
Thù đánh thức người ấy mãi
không được. Phật bảo Võng Minh đánh
thức, Võng Minh đánh thức được
ngay.[3]
Niêm : Đứa con oan gia làm tan nát cả gia phong ta.
Tụng : Trước Phật sao còn niệm sơ, thân
Định ấy
còn chưa được chính chân
Nếu quả
hóa công không hậu bạc
Xuân về,
đâu lại chẳng mùa Xuân?
Công án thứ mười
Cử : Mã tổ Đạo Nhất, ba mươi năm sau cơn loạn Hồ, chưa từng
thiếu muối thiếu tương.
Niêm : Dù là không mảy may vi phạm thì cũng còn cầm đũa mà mút
ngón tay.
Tụng : Lưu Linh đã lỡ nên bầu bạn
Nhà là
quán rượu ngủ quanh năm
Dù tự
khoe mình trang hảo hán
Đóng vai
mất áo giữa đường chăng?
Công án thứ mười một
Cử : Bách Trượng trở lại tham vấn Mã Tổ. Mã Tổ hét một cái, Bách Trượng đại ngộ.
Niêm : Chùy ngọn đâm nghìn nhát, không bằng thuổng
cùn ấn xuống một nhát.
Tụng : Xưa kia, xe, sách [4] chưa hòa hợp
Bốn bên
giặc giã dậy bầy ong
Một lần
vung kiếm thiêng trên ngựa
Đường
đạo từ nay tin tức thông.
Công án thứ mười hai
Cử : Quốc sư [5] một hôm kêu thị giả ba lần, thị giả
dạ ba lần. Quốc sư nói: “Đâu phải
là ta phụ ngươi, chính là ngươi phụ ta đó”.
Niêm :
Như người uống nước, nóng lạnh tự mình biết.
Tụng : Đôi bên xướng họa vẫn tương đương
So sánh
vào đâu biết đoản trường?
Gan ruột
đã bày ra tất cả
Lòng ta
ta biết, ý ta tường.
Chú thích:
[3].
Khi Văn Thù tới Phật hội thì chư Phật đã tục tục giải tán đi về. Chỉ có
một phụ nữ tiến đến gần pháp tọa của đức Thế Tôn rồi ngồi nhập thiền
định. Văn Thù liền thưa với Phật: “Tại sao một phụ nữ còn được
tiến lại gần pháp tọa của Ngài còn con thì không?” Phật nói: “Ngươi
hãy đánh thức người đàn bà này dậy rồi hỏi ngay người đó”. Văn Thù đi
quanh ba lần và búng ngón tay. Người đàn bà không xuất định. Văn
Thù bay lên trời Phạm Thiên và dùng thần thông kéo người đàn bà đứng
dậy. Cũng không thành công. Phật nói: “Dù cho cả
trăm ngàn Văn Thù hợp lại cũng không thể đánh thức người đàn bà này. Chỉ
có Bồ Tát Võng Minh cách đây hằng hà sa thế giới mới có thể đánh thức được”.
Sau đó, Võng Minh xuất hiện từ dưới đất lên và đảnh lễ Phật. Phật ra hiệu
cho Võng Minh. Võng Minh búng ngón tay và người đàn bà xuất định. Nên nhớ
Văn Thù Bồ Tát tượng trưng cho trí tuệ còn Võng Minh thì trái lại.
[4].
Xe và sách: Sách Trung Dung có câu: “Nay cùng ở dưới gầm trời, xe chung đường,
sách chung chữ”. Ý nói: có sự liên lạc thông cảm giữa mọi người trong
thiên hạ.
[5].
Huệ Trung Quốc Sư, người Chiết Quang, pháp tử của Lục Tổ Huệ Năng.
Công án thứ mười ba
Cử : Đại Quy nói: “Khái niệm về có và về không như giây leo
quấn cây lớn”. Sơ Sơn hỏi: “Cây lớn ngã,
giây quấn khô, thì có và không đi về đâu?” Nói rồi cười ha ha.
Niêm : Nước tuy chảy đi nhưng vẫn còn nơi biển cả
Trăng
tuy lặn mất nhưng không lìa khỏi bầu trời.
Tụng : Sóng lặng khi nào gió đứng yên
Mất công
hướng ngoại luống lao phiền
Một
tiếng cười tan nghi vạn mối
Phân
thành sỏi ngọc rõ đôi bên.
Công án thứ mười bốn
Cử : Bách Trượng nói: “Thế nào gọi là pháp không vì người mà
nói?” Nam Tuyền trả lời: “Không phải tâm,
không phải Phật, cũng không phải vật”.
Niêm : Cả ngàn vị thánh đi tìm dấu chân nó cũng không được; toàn thân nó ẩn tại hư không lớn.
Tụng : Công án là kia, hãy đối đầu Thẳng nhìn vào mặt của
cao sâu Nhà Phật lưu mời không chịu ở
Đêm đêm thói cũ ngủ bờ lau.
Công án thứ mười lăm
Cử : Nam Tuyền nói: “Tâm không phải là Phật, trí không phải là
đạo”.
Niêm : Hô hấp tất cả lý lẽ huyền vi, trên đường về bước
dưới ánh trăng.
Tụng : Vạn tiếng âm thầm tinh tú chuyển
Thái hư
trầm lặng không vết gì
Nương
gậy lên lần trông bốn phía
Tịch
tịch liêu liêu nào ngại chi?
Công án thứ mười sáu
Cử : Lâm Tế sau khi xuất thế, chỉ dùng có phép bổng yết để
khai thị đồ chúng. Hễ thấy một vị
tăng nào vào cửa là hét.
Niêm : Giữa trưa mồng năm tháng năm, miệng lưỡi độc địa tiêu trừ sạch hết.
Tụng : Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh
giấc hôn trầm lũ cháu con
Một
tiếng sấm Xuân vừa chấn động
Khắp nơi
cây cỏ nẩy mầm non.
Công án thứ mười bảy
Cử : Nam Tuyền nói: “Bình thường tâm thị đạo”.[6]
Niêm : Lạnh thì nói rằng lạnh, nóng thì nói rằng nóng.
Tụng : Ngọc trắng nguyên lai không tội trạng
Cứ gì
mài giũa mới là xinh
Quê cũ
không do đường lối ấy
Núi dốc
buông tay, phó mặc mình.
Công án thứ mười tám
Cử : Triệu Châu nói: “Các người bị hăm bốn giờ trong một ngày sai sử, ta đây sai sử hăm bốn giờ trong một ngày”.
Niêm : Cậy thế khinh người, không căn cứ trên căn bản nào
cả.
Tụng : Rồng thiêng cọp dữ nên thuần thục
Hăm bốn
giờ vâng phép một ngày Biến sắt thành vàng dù phép lạ
Ai đem
tiết lộ cho người hay ?
Công án thứ mười chín
Cử : Có vị tăng hỏi Lâm Tế: “Thế nào là vô vị chân nhân ?”
Lâm Tế nói: “Cọng cứt khô”.[7]
Niêm : Bắn chim sẻ thì sợ mất đạn, đập chuột lại sợ dơ
gậy.
Tụng : Cứt khô: vô vị chân nhân
Gia
phong Phật tử nát bao lần
Kìa kìa
chú mục mà quan sát:
Lội biển
trâu bùn mất dấu chân.
Chú thích:
[6].
Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: “Đạo là gì?” Nam Tuyền đáp: “Tâm hàng ngày của
ta là đạo”. Triệu Châu nói: “Như vậy thì không cần tu hành phải
không?” Nam Tuyền nói: “Nếu ngươi có ý định tu hành thế là đạo không còn
nữa”. Triệu Châu nói: “Nếu tôi không có ý định, thì làm sao tôi biết đó
là đạo?” Nam Tuyền nói: “Đạo không phải ở nơi biết hay là không
biết. Nếu nói là biết thì là biết cái gì; đó chỉ là vọng giác. Nếu
nói nó là không biết, thì là vô ký mất. Nếu ngươi đạt đến trình độ không
còn nghi ngờ gì nữa thì tự nhiên thái hư mở rộng, sự vật dung hợp. Đạo
không nằm ở chỗ phân biệt và phê phán phải trái”.
[7].
Lâm Tế Lục: Triệu Châu một hôm khai thị đại chúng: “Các ngươi biết không, có
một bậc vô vị chân nhân trên đống thịt đỏ thường hay ra vào ở cái cửa phía
trước mặt các ngươi. Các ngươi có biết người ấy là ai không. Nếu không
biết thì hỏi ta”. Có một vị tăng hỏi: “Thế nào là vô vị chân nhân?” Triệu
Châu liền đánh một gậy và nói: “Vô vị chân nhân là cái cứt khô gì?” Trong
bài Phổ Thuyết Sắc Thân ở Khóa Hư Lục, Trần Thái Tông cũng nhắc đến đề tài Vô
Vị Chân Nhân như sau: “Đã mang lấy thân thể này thì bỏ nó đi thật là một chuyện
thiên nan vạn nan. Làm sao để không bị thân thể này ràng buộc? Nếu
còn bị ràng buộc thì hãy nghe đây:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng hồng trắng trắng khéo lừa nhau
Ai hay mây cuốn, trời quang tạnh
Hiện rõ bên trời đỉnh núi cao”.
Công án thứ hai mươi
Cử : Triệu Châu nói: “Ta đã khám phá ra được bà già ở Ngũ
Đài Sơn rồi”.[8]
Niêm : Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm, không cho bịt
tai.
Tụng : Đài
Sơn nháy mắt không còn nữa
Chẳng
cần bước mệt vẫn về nhà
Giặc
hết, không ai chủ chiến
Gươm báu
cần chi phải tuốt ra?
Công án thứ hai mươi mốt
Cử : Triệu
Châu nói: “Phật bằng vàng không độ được lò,
Phật bằng gỗ không độ được lửa, Phật bằng
đất không độ được nước. Phật chân chính ngồi trong nhà”.
Niêm : Sơn
là sơn, thủy là thủy. Phật ở đâu?
Tụng :
Võng Xuyên [9] cảnh ấy đã thành tranh
Xưa cậy
Vương Duy mới đắc danh
Uổng nét
đan thanh không chỗ họa
Trời kia
trăng sáng gió thơm lành.
Công án thứ hai mươi hai
Cử :
Triệu Châu nói: “Ở Thanh Châu, tôi làm được một chiếc áo gai bố nặng tới bảy cân”.[10]
Niêm : Nói
củ cải Trấn Châu còn nghe được, nói gai bố Thanh Châu chỉ khiến người ta rầu.[11]
Tụng : Một
chiếc áo gai thật dị thường
Rương
tre họ Triệu cất sao đương
Cân nhắc
từng ly, phân với lượng
Tám
chàng họ Mạnh chết không thương
Chú thích:
[8].
Có một bà già lập quán nước trên đường đi Đài Sơn. Những vị tăng hành cước sau
khi uống trà xong thường hỏi: “Đường này đi lên Đài Sơn đây phải không bà
cụ?” Bà già đáp: “Cứ đi thẳng lên đấy”. Khi vị tăng vừa đi khỏi vài
ba bước là bà già nói thầm: “Cái ông thầy tu a dua này cũng thế”. Việc
xảy ra nhiều lần, lọt đến tai Triệu Châu. Triệu Châu nói: “Như vậy
để ta thử đi xem sao!” Đến nơi, uống nước xong Triệu Châu hỏi: “Này bà
cụ, có phải con đường lên Đài Sơn đây không?” Bà già đáp: “Cứ theo
đường ấy là được”. Triệu Châu vừa đi khỏi vài bước, bà cụ lại nói:
“à cái ông thầy a dua này, lại cũng đi như thế nữa!” Triệu Châu không nói
gì, về nói lại với đại chúng: “Cái bà già ở Đài Sơn ấy hôm nay ta đã khám phá
ra tung tích rồi!”
[9].
Địa danh huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, phong cảnh thanh tú. Vương Duy đời
Đường đã vẽ nhiều bức tranh về vùng này.
[10].
Câu nói này của Triệu Châu là để trả lời câu hỏi của một vị tăng: “Vạn pháp đi
về một, một đi về đâu?”
[11].
Có vị xuất gia hỏi thiền sư Triệu Châu: “Nghe nói Ngài có đích thân gập thiền
sư Nam Tuyền, phải không?” Triệu Châu nói: “Ở Trấn Châu củ cải lớn lắm”.
Công án thứ hai mươi ba
Cử : Có vị tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tính
không?” Đáp: “Không”. Rồi có kẻ hỏi
trở lại câu hỏi đó. Châu đáp: “Có”.
Niêm : Hai lần chọn một lần thi.
Tụng : Trước mặt tùy cơ nói hữu, vô
Lời ra,
diệt hết cả quần Hồ
Một đời
tự phụ trang anh hán
Rốt cuộc
vẫn còn chưa trượng phu.
Công án thứ hai mươi bốn
Cử :
Triệu Châu nói: “Chốn có Phật thì
không được ở lại; chốn không Phật thì phải vượt qua cho mau”.
Niêm : Nước
dồn lại thành vụng, gậy đánh xuống thành vết.
Tụng : Nơi có nơi không đều mất hết
Lời kia
rốt cuộc vẫn chưa tròn
Sau bữa
niêm hoa, tường thuật lại
Không
rời nửa bước tới tây phương.
Công án thứ hai mươi lăm
Cử : Thủ
Sơn cầm chiếc gậy tre nói: “Gọi cái này là gậy tre thì sẽ nhận một gậy, mà không gọi nói là gậy tre thì sai trái. Vậy
thì gọi nó là cái gì?”[12]
Niêm : Đừng cựa quậy; ai cựa quậy sẽ lảnh đủ ba mươi gậy.
Tụng : Phải trái đôi bên phải rạch ròi
Nói cho
minh bạch, đấy là ai?
Tuy là
đường rộng thênh thang đó
Vẫn còn
lận đận lắm chông gai.
[12].
Sau đó một vị tăng tên Quy Tỉnh đoạt chiếc gậy, liệng xuống đất nói: “Là cái
gì?” Thủ Sơn nói: “Cái ông thầy mù chột”. Nghe câu ấy, Quy Tỉnh đại
ngộ.
Công án thứ hai mươi sáu
Cử : Có vị tăng hỏi Động Sơn: “Phật là gì?” Động Sơn nói: “Ba cân gai trên vách”.
Niêm : Gọi
là một vật rốt cũng không đúng.
Tụng : Phật vốn là gì? Xin đáp rõ
Ba cân
gai ấy của Động Sơn
Tuy
không lặn lội phong trần nữa
Vẫn còn
lấy cảnh chỉ bày tâm.[13]
Công án thứ hai mươi bảy
Cử : Có vị tăng hỏi Hiện Tử hòa thượng về ý của Tổ sư từ Tây
Vức tới. Hiện nói: “Cái đài bàn
cúng rượu trước miễu thờ thần”.
Niêm : Chưa phải sư tử con thì còn chưa miễn chạy theo
cục đất.
Tụng : Dứt hết cội nguồn không chỗ tựa
Mượn
điều trước mắt gọi chiều sâu
Tổ ý nếu
là bàn cúng rượu
Gọi quần
là khố được hay sao?
Công án thứ hai mươi tám
Cử : Vô Nghiệp quốc sư nói: “Nếu trên đầu một mũi lông mà
quan niệm phân biệt phàm thánh chưa
dứt thì vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa”. Bạch Vân Đoan hòa thượng nói: “Thiết sử trên
đầu một mũi lông mà quan niệm phân
biệt phàm thánh đã dứt, thì cũng vẫn chưa miễn được cái cảnh đi vào thai lừa bụng ngựa kia mà”.
Niêm : Đốt
núi thì cọp chạy, khua bụi thì rắn hoảng.
Tụng : Lời nói vẫn còn chưa khí phách
Cần chi
đập bụi để xà kinh
Trường
An lối cũ đà thông thạo
Thì hỏi
thăm chi nữa lộ trình?
Công án thứ hai mươi chín
Cử : Huyền Sa khai thị chúng: “Các vị lão túc nói thường hết
lòng tiếp vật độ sinh. Giá có một kẻ
vừa mù vừa câm vừa điếc đi tới, làm sao tiếp độ? Cầm chùy đưa phất trần lên thì kẻ kia không
thấy, giảng thiền tam muội thì kẻ kia
không nghe, dạy đọc kinh thì kẻ kia mở
miệng không được”.
Niêm : Khát thì uống, đói thì ăn, lạnh thì choàng áo,
nóng thì phẩy quạt.
Tụng : Buồn thì xịu xuống; vui, cười lên
Mũi giọc
mày ngang lẽ tự nhiên
Nóng
lạnh đói no tùy xử sự
Nghi ngờ
chi nữa luống ưu phiền ?
[13].
Về câu hỏi “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại”. Một hôm Triệu Châu trả lời một
vị tăng: “Cây bách ở trước sân”. Vị tăng nói: “Xin hòa
thượng đừng lấy cảnh chỉ bày
tâm”. Triệu Châu nói: “Lão tăng chưa từng lấy cảnh chỉ bày tâm bao
giờ”. Vậy thì thế nào là “Ý của Tổ sư từ Tây Vức lại ?” Triệu Châu
nói: “Cây bách ở trước sân”.
Công án thứ ba mươi
Cử : Thoại Nham thường tự gọi: “Này chủ nhân ông! Tỉnh tỉnh
dậy! Từ nay về sau đừng để cho người
ta khinh khi nữa !”
Niêm : Kêu được thì chỉ chảy máu miệng ra thôi, nào có
ích gì đâu. Chẳng bằng ngậm miệng lại
mà đợi mùa Xuân tàn.
Tụng : Tài lược trầm cơ đã dụng công
Ngờ đâu
chưa đáng mặt anh hùng
Nếu quả
tướng tài vô địch thật
Mặt trời
bắn thử rớt hay không ?
Công án thứ ba mươi mốt
Cử : Tam Thánh [14] nói: “Ta gặp
người thì ra, nhưng chẳng phải là ra vì người”. Hưng Hóa nói: “Ta gặp người thì không
ra, nếu ra là vì người mà ra”.
Niêm : Một con rùa mù làm bạn với hai con ba ba què.
Tụng : Khi khát nào ai uống nước tương
Cả ngày
bụng lép, nói “ăn” suông
Dao sắc
đôi chiều, đừng liếm mật
Có ngày
đứt lưỡi, chớ khinh thường.
Công án thứ ba mươi hai
Cử : Nam Tuyền thấy Đặng Ẩn Phong tới, liền chỉ vào tịnh bình mà
nói: “Tịnh bình là cảnh, ông không nên
dính vào cảnh”.
Niêm : Nói rằng có cảnh, nhưng dính vào đâu ?
Tụng : Gương trong thanh tịnh, bụi đâu ra,
Lau rửa
mà chi nhọc sức ta
Nhàn
tịnh vui theo từng cảnh giới
Cơm xong
hãy uống một chung trà.
[14].
Tam Thánh: tên chữ và cũng là danh hiệu của thiền sư Tuệ Nhiên, môn đệ thiền sư
Lâm Tế, người biên chép Lâm Tế Lục
Công án thứ ba mươi ba
Cử : Thạch
Đầu nói: “Như vậy cũng không được, không
như vậy cũng không được, vừa như vậy
vừa không như vậy cũng không được”.
Niêm : Chư hạnh vô thường, tất cả đều chứa chấp khổ não.
Tụng : Muốn kể cho người câu chuyện hay
Hiềm vì
cửa động đám mây bay
Dù có
tài tình trong lúc nói
Vạn dặm
còn xa ý chỉ này.
Công án thứ ba mươi tư
Cử : Có vị tăng hỏi: “Cảnh giới Giáp Sơn thế nào?” Sơn
đáp: “Sau khi vượn mẹ ôm con về rừng xanh, hoa rụng tơi bời nơi thung
lũng biếc”.
Niêm : Đem
theo cây gậy, gặp sân khấu ở đâu thì múa chơi ở đó.
Tụng : Giáp Sơn u tịch không ai tới,
Ai thấy
cho tường cảnh giới xa?
Gặp bậc
siêu phàm đôi mắt tuệ
Thì nghe
trống ngọ giữa canh ba.
Công án thứ ba mươi lăm
Cử : Có
vị tăng hỏi Mục Châu: “Trong một hơi thở, có thể thông qua một đại tạng kinh không ?” Châu nói: “Có anh chàng bán
bánh Tất La [15] thì dắt tới đây mau”.
Niêm : Buông xuôi hai tay mà về được tới nhà, không cần
bước mỏi.
Tụng : Kinh tạng chuyển hồi trong hơi thở
Tìm cành
nhặt lá để làm chi
Diệu
nghĩa thâm uyên đà hiện sáng
Tham vấn
sơn tăng được ích gì ?
Công án thứ ba mươi sáu
Cử : Trong một kỳ chúng hội dưới sự chủ tọa của Lâm Tế, cả
hai vị thủ tọa của hai thiền đường
đồng thời hét lớn. Có vị tăng hỏi: “Như thế còn có chủ khách nữa thôi ?” Lâm Tế nói: “Thì chủ khách
rõ ràng đó”.
Niêm : Cũng
chỉ là khỉ bạch nói lăng nhăng.
Tụng : Phật
tại trời cao reo tiếng gió
Ý sâu
công án thế mà thôi
Cũng nhờ
phân được rành cương giới
Mới hiểu
lòng dân giúp đỡ đời.
[15].
Tất La là một thứ bánh. Sách Tây Dương Tạp Trở kể chuyện có người
nằm mơ vào ăn bánh Tất La trong quán, đến khi tỉnh dậy anh chàng bán quán tới
nhà nói: “Ông là khách vào quán ăn hết hai cân bánh Tất La sao chưa trả tiền mà
lại bỏ đi ?”
Công án thứ ba mươi bảy
Cử : Huyền
Sa nói: “Ta cũng như chủ nhân một thửa ruộng, đem cắt bán hết cho người khác, duy còn lại một cái cây ngay giữa trung tâm, ta giữ trong quyền sở hữu của ta”.
Niêm : Biển
lớn không dung nạp tử thi.
Tụng : Nếu
quả là người chân liễu ngộ
Thì tâm
vô niệm hết phân vân
Dù xem
vàng vạc như hơi bụi
Mắt vẫn
còn rơi một mảy trần.
Công án thứ ba mươi tám
Cử : Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Tư về đại ý Phật pháp. Tư nói: “Gạo ở Lư Lăng
giá bao nhiêu?”
Niêm : Bóng
trúc quét thềm, bụi trên thềm không lay động
Vầng
trăng chiếu nước, mặt nước không vết ghi.
Tụng : Ngữ khí quả là trang hảo hán
Tùy theo
căn tính độ quần sinh Lư Lăng giá gạo bao nhiêu nhỉ?
Rút lại
gang tay vạn lý trình.
Công án thứ ba mươi chín
Cử : Có vị tăng hỏi Văn Thù [16]: “Vạn pháp đi về một, một
đi về đâu?”
Thù nói:
“Sông Hoàng Hà chín khúc”.
Niêm : Có lúc vì trăng sáng quá, chẳng biết rằng
thuyền đã vượt quá Thương Châu.
Tụng : Chín khúc sông Hoàng khai tuệ nhãn
Đường xa
không bước vẫn về nhà
Mở mắt
bao lần quan sát lưới
Không dè
chim hạc đã bay qua!
Công án thứ bốn mươi
Cử : Nam Tuyền hỏi Triệu Châu: “Chú là sa di có chủ hay sa di
chưa có chủ?” Triệu Châu nói: “Có chủ”.
Nam Tuyền hỏi: “Chủ là ai?” Triệu Châu chấp tay trước ngực nói: “Hôm nay trời lạnh, mong hòa thượng giây phút nào cũng
có hạnh phúc”.[17]
Niêm : Khéo tay thì dùi cũng như kim.
Kẻ khéo
sử dụng thì vẫn thấy tiện lợi.
Tụng : Chú Triệu chấp tay mà nói khéo Né hai thái cực,
đứng trung dung Đâu biết Hoa Lam Hàn lệnh
thuật Nào hay chàng Hội rút về không?
Công án thứ bốn mươi mốt
Cử : Có vị tăng hỏi Một Am: “Thế nào là nạp y hạ sự?”[18]
Am nói:
“Kim đâm không thủng”.
Niêm : Tĩnh tọa không còn một mảy bụi, hư không chẳng có
lối thông thương.
Tụng : Mũi sắt dùi đồng xuyên chẳng thủng
Cầm lên
mềm mại như bông tơ
Hư không
lành lặn không khe hở
Đêm về
hoa mộc nở thơm tho.
Công án thứ bốn mươi hai
Cử : Bàng cư sĩ [19] tuyên bố: “Đây là trường thi tuyển Phật, ai tâm
không thì trúng tuyển vinh quy”.
Niêm : Danh đề tháp nhạn, không cho nạp quyển trắng đâu
nhé.20
Tụng : Lông chim mà kết được giày rơm
Tuyển
Phật trường kia vượt vũ môn
Nếu nói
tâm không thì trúng tuyển
Coi
chừng bầm tím vết roi đòn.
Công án thứ bốn mươi ba
Cử : Từ Minh hỏi Chân Điểm Trụ: “Thế nào là đại ý Phật
pháp?” Chân nói: “Không có mây sinh
trên đỉnh núi mà có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Minh hét: “Đầu bạc răng long mà còn có kiến giải tệ
như thế ư?” Chân khóc một hồi rồi nói: “Như
thế tôi quả thật chẳng biết thế nào là đại ý Phật pháp”. Từ Minh nói: “Không có mây sinh trên đỉnh núi mà
có mặt trăng rụng trong lòng sóng nước”. Chân
bèn đại ngộ.
Niêm : Kẻ nhàn giả thì cho đó là nhàn, kẻ trí giả thì cho
đó là trí.
Tụng : Đây đó cùng chung một điệu đàn
Lòng xin
trao gửi với tri âm
Non cao
sông rộng dù sai khác
Trăng
sáng mây quang nghĩ đại đồng.
Chú thích:
[16].
Văn Thù Viên Minh, người Phúc Châu. Sau khi đắc pháp đi du hành tại Ngũ
Đài Sơn cảm thụ được sự hóa hiện của Văn Thù Bồ Tát, nên ở lại lập Văn Thù
Viện. Sống tới 136 tuổi.
[17].
Bích Nham tập
[18].
Chiếc áo tầm thường của tăng sĩ kết lại bằng nhiều mảnh vải vụn.
[19].
Bàng cư sĩ, tên là Bàng Uẩn người Hồ Nam, tinh thâm Nho học, quy y
Phật pháp, tham học với Thạch Đầu hòa
thượng.
[20]. Bất dung duệ bạch: không được nộp quyển trắng. Quyển trắng là quyển của thí sinh
không làm được bài nào.