Hôm nay chúng ta có một đề tài đột xuất, lý do là có một số thiền sinh muốn biết “trú xứ nào thích hợp để hành thiền”?
Câu hỏi này rất hay. Đúng ra, đây phải là bài học đầu tiên cho tất cả
những ai sơ cơ bước vào đời sống tu học nghiêm túc; nhưng do là tôi
thường hay nói chuyện, giảng pháp, giảng thiền trước hội chúng đã từng
tu tập - nên tôi quên bẵng là có những người đến tập thiền hôm nay còn
rất mới mẻ.
“Trú xứ thích hợp”,
thật ra cũng không phải đơn giản. Đã rất nhiều người hiểu lầm. Tôi nhớ
thời gian sau những năm 1975 dường như chín mươi phần trăm tu sĩ đều
hoàn tục do “hoàn cảnh tu học không còn thích hợp nữa”. Một số khác có chí tu, muốn tìm chỗ tu tập thuận tiện, tiện nghi hơn, họ viện dẫn một đoạn kệ trong 38 pháp hạnh phúc: “Ở trú xứ thích hợp, công đức trước đã làm, chơn chánh hướng tự tâm, là phúc lành cao thượng” (Patirūpa-desa-vāso ca. Pubbe ca kata-puññatā. Atta sammā panīdhi ca. Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ).
Rồi họ nói: Chính đức Phật cũng đã từng dạy, muốn có hạnh phúc cũng cần phải đi tìm kiếm trú xứ thích hợp kia mà! Trú xứ thích hợp
cái kiểu đó chính là đầy đủ phương tiện vật chất. Nhưng chúng ta đã
hiểu rõ rằng, các nước văn minh tiên tiến, cơ bản họ không lo cái ăn,
cái mặc nữa, nhưng những bất hạnh về gia đình, những mối bất hòa về cha
con, vợ chồng, những căng thẳng quá tải do công việc đã đưa đến những
khổ đau về tinh thần là thảm họa khôn lường do sự cạnh tranh lợi nhuận
mà ra. Vậy, trú xứ thích hợp không phải là tìm chỗ dư dã vật chất. Nước Bhutan là nước theo Phật giáo, có thể họ còn rất nghèo nhưng chỉ số hạnh phúc đầu người của
họ được xem là cao nhất thế giới. Xứ Kuru thời đức Phật - một bộ lạc
nghèo - cũng thuộc loại có chỉ số hạnh phúc đầu người cao nhất Ấn Độ
thời bây giờ, nhờ người dân ở đây đều tu tập Tứ Niệm Xứ. Myanmar là một
trong những đất nước nghèo nhất thế giới nhưng lại là nơi xuất sinh
những vị thiền sư có ảnh hưởng tầm thời đại; và ở tại đấy đã có nhiều
trường thiền tu học nghiêm túc, lôi cuốn Tăng ni Phật tử khắp năm châu.
Đến đây ta có thể loại trừ trú xứ thích hợp theo nghĩa vật chất ở
trên... Nói cụ thể hơn tí nữa, trú xứ thích hợp không phải đi tìm chỗ
ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng, mọi tiện nghi đều được cung phụng
đầy đủ...
Có người hỏi.
- Vậy thì nghèo, khổ mới tu được hay sao, thưa thầy?
- Đấy, bạn lại rơi vào cực đoan
khác. Ở Ấn Độ, ai đầy đủ quyền lực, giàu sang, danh vọng hơn đức vua
Bimbisāra, đức vua Pāsenadi ? Ai có vàng bạc, của cải hơn ông Cấp Cô
Độc, bà Visākha? Ai có gia sản lớn như ngài Sārīputta, Mahākassapa? Rồi
các vị vua thời Lý, Trần của chúng ta nữa? Và gần đây nhất, hiện nay,
các nước văn minh tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp,
Úc, Canada... người ta nghiên cứu Phật học và hằng ngàn chùa chiền, tu
viện, thiền viện để cho mọi người tu tập thì sao nhỉ? Vậy nghèo giàu
không phải là vấn đề, nó không phải là cái quyết định. Lại nữa, trú xứ thích hợp
cũng chưa phải là nhân tố quyết định. Nó chỉ là duyên. Chúng ta tu học,
chúng ta thiền tập cũng phải biết tạo những duyên tốt cho sự tu học,
cho sự thiền tập ấy được tốt hơn, có hiệu quả hơn, có phải thế không?
Một hạt lúa mà gieo trên đất khô cằn, không có phân, không có nước...
thì nó sẽ không thể thành cây lúa tốt tươi được. Cũng vậy, có tâm tu,
muốn công phu thiền tập cho có hiệu quả, chúng ta phải có những bước
chuẩn bị, lựa chọn, tìm kiếm môi trường thích hợp... tương tợ như thêm
phân, thêm nước, chăm bón cho cái cây lúa kia vậy.
- Tức là lựa tìm cái chỗ ở hoặc nơi chốn thích hợp để hành thiền, phải không thầy?
- Ở
trường hợp đang nói đây thì đúng như vậy! Cái nơi chốn, cái chỗ ở thích
hợp để hành thiền, lý tưởng nhất - nói cái lý tưởng nhất trước đã - thuở
đức Phật thì khác, bây giờ thì khác! Bây giờ thì có thể tìm kiếm 10 chỗ
sau đây:
Một - rừng, cội cây, ngôi nhà trống...
Hai - không gần xóm cũng không xa xóm...
Ba - không gần đình, miếu, am, quán... thường có nhiều người vào ra và nhiều cuộc lễ hội, cúng kỵ...
Bốn - nơi không có thú dữ, nơi tụ họp của bọn xì-ke, ma túy, gần hang ổ bọn trộm cắp, tội phạm...
Năm - không gần chỗ nga ba, ngã tư, bến nước, nhà ga, siêu thị, chợ búa...
Sáu - không gần chỗ khách du lịch, vui chơi giải trí, tắm giặt, vũ điệu hát ca phù phiếm...
Bảy -
không gần chỗ hội họp, hội thảo, tiệm internet; nơi cờ bạc, quán cà phê,
quán rượu, nơi chơi cổ phiếu - thị trường chứng khoán...
Tám - không gần nơi lò mổ, trại nuôi heo bò, gà vịt...
Chín - không gần trại phong cùi, trại tù binh trọng hình, trọng án...
Mười - tránh xa những cơ sở công nghiệp do động cơ, khí thải làm cho không gian, đất đai, nguồn nước ô nhiễm...
- Đúng là lý tưởng - một người thốt lên - nhưng ở đâu tìm ra được hoàn cảnh và môi trường tuyệt vời như thế?
- Tôi
biết. Vì đấy là lý tưởng. Nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người, ai
cũng có thể thu xếp cho mình một góc phòng nào đó, khoảng thời gian nào
đó để tập định. Nói ngắn gọn, là nên tránh xa chỗ ồn ào, bụi bặm, chỗ
dễ bị lây nhiễm tập tính xấu, chỗ dễ làm cho ta phân tâm, nhiễu loạn...
quý vị đã nắm rõ như thế chưa?
- Thưa vâng!
Yên lặng một lát rồi có người nói:
- Chỗ của
tôi ở rất ồn ào, hai bên kẹp chặt một quán cà-phê và một quán ăn nhậu,
đến chín mười giờ đêm vẫn không yên; trong trường hợp ấy, làm sao để tập
thiền hở thầy?
- Quả là khó đấy! Vậy thì từ lâu, bạn đã đối trị ra làm sao?
- Dạ thưa
vâng! Tôi sẽ kể hầu thầy nghe, đồng thời muốn san sẻ với các bạn kinh
nghiệm mà tôi đã trải qua. Suốt mấy tháng trường, tôi đã không an trú
vào hơi thở được, thế là tức giận, sân hận ồ ạt nổi lên. Hôm kia, tôi
chợt hỏi: Tại sao, mình lại tức giận? Mình ngồi thiền là để mà sân hận
như thế này hay sao? Hóa ra, do mình muốn sự yên lặng, ước muốn ấy do
không được toại nguyện, không được hài lòng, thỏa ý nên mình đã bực tức.
Vậy tại sao mình không từ bỏ đối tượng trở ngại bên ngoài rồi lắng nghe
sự tức giận ấy nó nung đốt mình ra làm sao? Thế rồi, tôi chỉ ngồi và
quan sát, lắng nghe cái tức giận. Tôi đã tỉnh giác, chú tâm liên tục.
Lát sau, điều kỳ diệu xẩy ra, nghĩa là, tiếng nhạc loạn ồn ào bên ngoài
đã trở nên mơ hồ, xa vắng; và cơn tức giận bên trong nó cũng đã dần dần
lắng dịu xuống rồi tan loãng đi. Tôi nhủ thầm: Đúng vậy rồi, cái gì có sanh thì cái ấy có diệt! Tôi đã nhìn ngắm được cái sinh diệt của tâm sân! Đấy là cách đối trị của tôi để vượt qua chướng duyên bên ngoài. Thế có tốt không thưa thầy?
- Đúng,
vậy là tốt! Do nhờ ông bạn đã tập thiền nhiều năm nên đã thấy rõ mình
luôn bị chi phối bởi hai năng lực tham và sân. Muốn yên lặng, muốn dứt
tiếng ồn - đấy là tham; ước muốn ấy không được toại nguyện - nên sinh ra bực tức - đấy là sân.
Bạn đã nghiêm túc lắng nghe, và biết rõ ước muốn yên lặng ban đầu là do
tham, sau đó, do ước muốn ấy không toại nguyện nên phát sanh sân! Sự
lắng nghe, quan sát tham và sân này - chính lúc ấy, bạn đã bước qua giai
đoạn niệm tâm rồi đấy!
- Ông bạn làm được việc ấy, còn tôi vì mới sơ cơ nên không thể - một người góp ý
- Chắc tôi sẽ nổi sùng lên, nóng nảy làm một việc sai lầm gì đấy thì
nguy to! Vậy, tôi sẽ cố gắng tìm kiếm trú xứ thích hợp để hành thiền, để
tu tập như 10 điều kiện thầy nêu ở trên - vừa lợi lạc cho mình vừa giúp
cho con cái được sống trong môi trường trong lành, cách ly được một
phần nào sự thác loạn, ồn ào, đủ mọi thứ ô nhiễm do con người và xã hội
gây ra. Tôi sẽ cố gắng tìm chỗ tốt nhất.
- Đúng
vậy! Mỗi người có thể tìm kiếm trú xứ thích hợp tùy hoàn cảnh của mình,
khả năng của mình; tuy nhiên, không ở đâu có điều kiện tốt tuyệt đối.
Sau khi có điều kiện về không gian tương đối rồi, chúng ta còn cần sự lựa chọn thời gian
nữa. Buổi khuya, trước khi đi ngủ; và buổi sáng khi vừa thức dậy, thời
gian ấy là tốt nhất. Tại sao vậy? Vì trước khi ngủ, mình tập thiền, năng
lực của thiền có thể duy trì cho mình một giấc ngủ an lành, không có
những giấc mộng dữ. Buổi sớm, mình tập thiền, năng lực của thiền giúp
mình ổn định thân tâm suốt một ngày làm việc. Các bạn phải thấy sự rõ
lợi ích ấy.
Có một người hỏi.
- Có người bảo nên tập thiền vào lúc nửa đêm, giờ tý, lúc ấy dương khí mới sinh - có đúng không thầy?
- Điều ấy đúng, đúng với cách luyện khí công của đạo gia. Họ luyện tinh thành khí, khí hóa thần, thần hoàn hư
theo quan niệm bí thuật của các đạo sĩ tu tiên. Theo đó, họ thở dài và
sâu, ép hơi thở xuống đan điền, giữ hơi thở càng lâu càng tốt, bế hậu
môn, dùng tưởng hâm nóng, đốt cháy tinh, chuyển tinh thành khí, dẫn khí lên
cột tủy sống để nuôi dưỡng thân xác với ước mong trẻ mãi không già,
thanh xuân, trường thọ... Chúng ta tu Phật, tu thiền cốt để giải quyết
phiền não nội tâm, có nên cưng chiều cái thân, tu luyện cho cái thân để
phát triển dục vọng như thế không - thì các bạn đã hiểu rồi.
Có người phát biểu.
- Đúng
vậy! Thầy đã nói đúng, đấy là cách nuôi lớn, phát triển dục vọng. Nhưng
nếu cũng ngồi vào giờ tý, quay mặt về hướng Bắc, vì lúc ấy mặt trời -
dương khí ở hướng Bắc - thì có tốt không thầy?
- Tốt! 24 giờ đêm, mặt trời ở hướng Bắc; 6 giờ sáng, mặt trời ở hướng Đông; 12 giờ trưa, mặt trời ở hướng Nam;
18 giờ chiều, mặt trời ở hướng Tây. Đúng những giờ khắc ấy, quay mặt về
hướng dương khí ấy, nó trợ lực tốt cho dương khí ở trong chúng ta -
nhưng cũng rất tương đối; quan trọng nhất ở đây là đừng có phản lại các lực, các khí các từ của vũ trụ... quý vị có hiểu không?
- Dạ chưa hiểu! Dường như thầy cố ý nói đến phong thủy khi đề cập đến các khí, các từ, các lực của vũ trụ?
- Đúng
vậy, nhưng, lãnh vực phong thủy cũng khá lớn rộng, cái đúng, cái sai của
nó - các trường phái Đông Tây có nhiều kiến giải khác nhau; nó chưa hắn
là thước đo trung chính; thứ nữa nó cũng không quan trọng lắm trong sự
thiền tập. Chúng ta chỉ cần biết rằng, từ trường của quả đất đi từ Bắc xuống Nam.
Khi đức Phật nhập diệt, ngài nằm thuận với từ trường của quả đất: Đầu
hướng Bắc, nằm nghiêng mặt về hướng Tây - tim không bị ép - lưng hướng
Đông, chân co chân duỗi xuôi Nam! Quả là kỳ diệu thay trí tuệ của một bậc Toàn Giác - vì thuở ấy khoa thiên văn, địa lý đang còn quá sơ khai!
- Vậy trú xứ thích hợp còn cả yếu tố phong thủy trong đó nữa sao?
- Không cần thiết! Chỉ cần biết chút ít. Chỉ cần biết chút ít để chúng ta không nên nghịch lại với các lực, các khí, các từ ấy
- có hại cho sức khỏe - mà phải biết vận dụng chúng để trợ lực thêm cho
mình, thêm duyên lành cho mình không tốt hơn sao? Ví dụ, nhà ở nên quay
mặt về các hướng Đông Nam, Tây Nam
để hưởng ánh nắng mặt trời buổi sớm - chắc hẳn là tốt hơn khi chúng ta
quay lưng lại với nó? Và gió cũng vậy, có gió lành, có gió độc. Nước
cũng vậy, thuận thế nước tốt hơn là nghịch lại với nó. Nói tóm lại, với
phong thủy, chúng ta cũng nên nắm bắt cái nguyên lý của nó để sống, để
ở, để tập thiền - vì ngoại duyên thuận hợp bao giờ cũng tốt hơn là
nghịch duyên vậy.
Một người hỏi.
- Vậy thì
khi mà chúng ta lựa chọn trú xứ thích hợp rồi - nghĩa là không gian
thích hợp, thời gian thích hợp - thì sự tập thiền của chúng ta sẽ dễ
dàng thành tựu?
- Chưa đâu! Đấy mới chỉ là ngoại cảnh, chúng ta còn cần phải chuẩn bị thân tâm nữa.
- Xin thầy hãy cho nghe một cách rộng rãi.
- Vâng. Các bạn hãy nghe đây. Đức Phật dạy: Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ; hoặc giới là nền tảng của định, định là nền tảng của tuệ.
Vậy, chuẩn bị thân tâm có nghĩa là thân tâm ấy phải có giới, thân tâm
ấy phải mát mẻ, trong lành cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ít ra là thân
tâm ấy không có một đời sống buông lung, phóng dật, rượu chè, cờ bạc,
tham lam, bạo tàn, hung dữ, độc ác... Nếu trước đây đã từng lỡ dại khờ,
mê muội mà sống như vậy thì nay phải hồi đầu, hướng thiện, phải biết thọ
trì tam quy và ngũ giới. Không có nền tảng tối thiểu của giới như vậy
mà mong định, mong thiền, mong tuệ thì chỉ là ảo tưởng mê vọng. Gia dĩ
trong năm giới mà bạn cảm thấy đôi lúc có sai phạm - cũng không sao,
biết có sai phạm là tốt; nhưng trước khi hành thiền, bạn nên tắm rửa
sạch sẽ, đốt nhang, xông trầm, đối trước tượng Phật, tự sám hối, tự xin
giới rồi tụng đọc một bài kinh Tam Bảo... thì thật là một sự chuẩn bị
thân tâm một cách chu đáo và trọn lành. Làm được như thế thì thân bạn an
ổn, mát mẻ, tâm bạn an ổn, mát mẻ... và nó chính là cơ sở tiền đề, nền
tảng cho chúng ta đi vào tập thiền, dù định hay tuệ một cách rất dễ
dàng.
- Chúng tôi hoàn toàn hiểu! Nhưng nếu như lúc ấy - một không thời gian nào đó - chúng tôi muốn tập thiền nhưng không có một chỗ thờ tự trang nghiêm thì sao ạ?
- Cũng
không sao cả! Tôi chỉ muốn nhấn mạnh trường hợp một vài người có đời
sống buông lung, phóng dật; do đời sống buông lung, phóng dật nên thân
tâm không yên; vì thân tâm không yên nên phải chuẩn bị cho thân tâm ấy
một cách chu đáo như thế. Đấy là cá biệt. Còn đa phần, những người đã
tập thiền lâu năm thì có thề ngồi đâu cũng được, không thời gian nào
cũng được - và chỉ cần chấp tay, thầm niệm Phật ba lần cho thân tâm được
thu thúc trang nghiêm lại - là đủ rồi! Và, có điều các bạn đừng quên,
sau khi xả thiền - nên hồi hướng công đức đến cho chư thiên, thọ thần,
phi nhân bao giờ họ cũng cư trú xung quanh chúng ta. Hồi hướng phước báu
đến cho họ, họ sẽ hoan hỷ; và khi mà họ hoan hỷ thì cả không gian xung
quanh đều được mát mẻ, yên ổn, an vui... Đừng nghĩ đấy là duy tâm, đừng
nghĩ đấy là nương tựa tha lực! Nó là sự thật đấy! Sự thực trong đời sống
toàn diện với mọi tương quan giữa ta và vạn hữu!
- Vâng! Phải vậy mới chí lý! Và cả chí tình nữa! Chúng tôi hoàn toàn hiểu trú xứ thích hợp rồi, thích hợp cho cả thiền định và thiền tuệ lúc tọa thiền. Còn trong sinh hoạt thường nhật nữa, thiền tập minh sát vipassanā nó như thế nào hả thầy?
- Từ từ đã! Dĩ nhiên, thiền tập minh sát vipassanā, ngoài tọa thiền ra, còn
chú trọng nơi mọi oai nghi đi, đứng, ăn nói... của tất cả quý vị. Và
dường như cái này quan trọng nhất: Thiền quán trong sinh hoạt thường
nhật! Cái này thì còn nói dài dài, nhưng phải từng bước, từng bước một.
Hôm nay ta có thể chấm dứt ngang đây là vừa phải lẽ! Buổi nói chuyện này
chỉ để dành cho một số cư sĩ tập định sơ cơ, phải cần trú xứ thích hợp
như vậy. Còn người tu minh sát tuệ lâu năm, đã thuần thục thì đối với
họ, cái chợ đời ồn ào, huyên náo lại thuận hợp cho họ lắng nghe, chiêm
nghiệm bài học giác ngộ.