Ngay giữa hội
Linh sơn khi Phật đưa tay có cầm nhành sen vàng giơ lên trước đại chúng, mà tất
cả đều ngơ ngác, duy chỉ có Ngài Ma-ha Ca-diếp đã nhìn Phật mỉm cười lãnh thọ
Tâm pháp, cũng là pháp thượng thừa tối vi diệu "Không pháp" từ đức
Phật. Phật đã ấn chứng việc truyền thừa Tâm pháp cho Tổ Ca-diếp qua lời tuyên
bố trước đại chúng: ‘ Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng
vô tướng, Pháp môn vi diệu, nay trao lại cho Ma-ha Ca-diếp.
Và sau đó chính
bài kệ truyền tâm ấn của Phật cho vị Tổ đầu tiên của pháp môn này (Ma-ha
Ca-diếp) đã nói lên tất cả ý nghĩa của nó :
Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời,
Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháp cũng pháp
Nay hồi trao không pháp
Các pháp đâu từng pháp.
Qua sự việc Thế
tôn tay đưa nhành sen trước đại chúng (thầm trao Tâm pháp), chúng ta nào thấy
Phật có thuyết pháp gì ở đây đâu, thế mà ngài Ma-ha Ca-diếp ngay đây trực nhận
yếu chỉ.
Bỡi đây là Tâm
pháp, một pháp môn tối vi diệu của Phật giáo mà Phật cũng như chư Tổ sau nầy
thường gọi là Tối thượng thừa pháp, dành để chỉ dạy cho những người căn trí
cao, phước sâu dày, và có duyên với Phật thừa vậy. Há chẳng phải như thế sao,
khi mà cả đại chúng trong hội Linh sơn đều mờ mịt, duy chỉ có mỗi một đệ tử tối
ưu của Phật, đệ nhất đầu đà Ma-ha Ca-diếp mới lãnh hội được yếu chỉ của pháp
môn nầy mà thôi.
Tâm pháp hay Không
pháp, cũng còn gọi là Thiền tông, từ sau Phật, tại chính đất Phật, đã được
Tổ-Tổ trao truyền không gián đoạn, mãi đến Tổ thứ hai mươi tám của Ấn độ, ngài
Bồ-đề Ðạt-ma, và Ngài cũng chính là Sơ tổ của Thiền tông Trung hoa vậy.
Với Tâm pháp,
không dùng chữ nghĩa, ngôn từ chẳng có nghĩa là không dùng gì cả mà có thể
truyền pháp được, mà chữ nghĩa, ngôn từ hay hành động của các Thiền sư vượt
thoát khỏi tri kiến nhị nguyên, không dính dấp, ràng buộc với kinh điển, hoặc
liên hệ trực tiếp với sự việc đang được người đối diện đề cập đến theo vọng tâm
phân biệt của họ, hay nói chính xác, lối dùng ngôn từ hay hành động có tính
cách khai thị của chư Tổ thiền tông tuông ra từ cảnh giới tự chứng giải thoát,
vượt quá giới hạn của thế trí để ngay đó phương tiện mở lối (khai thị) giúp
người đối diện bất giác ngoảnh đầu, chỉ sátnna toàn bộ trí hiểu biết của tâm
phân biệt cố hữu bị xóa sạch, như "mây đen qua trăng lộ sáng", đưa
người đối diện trực diện Trung đạo, nhận rõ tự tánh (ngộ) để từ đây sống chơn
thật với chính mình, cũng là sống đồng bổn lai tự tánh, cũng là Phật tánh
(nhập) của mỗi người mà tu hành để tự giải thoát. Ðến chỗ nầy, nói tu hành mà
trong đây thật chẳng có gì gọi là tu nếu đã tự sống chân thật với chính nó, với
tự thể tánh trọn thanh-tịnh, thì không còn đối đãi. Ðến chỗ này ngôn ngữ chẳng
thể với tới, mà chỉ có thân chứng mới tự tri, như chư Tổ thường nói, uống nước
nóng lạnh tự biết vậy.
Nếu diễn-tả được
trạng thái tâm thể này qua ngôn từ, chữ nghĩa thì Bồ-Ðề Ðạt-Ma đã có đề cập đến
chữ Vô Tâm mà ý nghĩa là chỉ thể tánh Không -Vô tướng -Vô tác, Lục tổ Huệ Năng
khi dùng pháp dạy người thì dụng chữ Không tướng - Vô Niệm - Vô truï, gần đây
nhất thì Sư Ðại Lãn thể hiện nó qua tự thể và diệu dụng của tánh bằng ba cụm từ
Không tịch - Ðương Niệm - Vô phân biệt, gồm lại thì một trong ba, phân ra thì
ba trong một, nhưng nói cho rốt ráo vẫn chỉ một, chỉ tùy ở chỗ động-dụng của
thể-tánh mà nói ba. Tuy-nhiên, dù dụng trăm lời ngàn chữ có lẽ cũng không thật
rõ-ràng bằng câu thốt trực ngộ của Lục Tổ Huệ-Năng khi được Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn
giảng Kim-Cang Kinh, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"
Ngài đã bất giác thốt lên :
"Hà kỳ Tự tánh bổn tự thanh-tịnh,
"Hà kỳ Tự tánh bổn bất sanh diệt,
"Hà kỳ Tự tánh bổn tự cụ túc,
"Hà kỳ Tự tánh bổn vô động diêu,
"Hà kỳ Tự tánh năng sanh vạn
pháp."
Dịch:
Không dè Tự tánh vốn tự thanh-tịnh,
Không dè Tư tánh vốn chẳng sanh diệt,
Không dè Tự tánh vốn tự tròn đầy,
Không dè Tự tánh vốn không lay động,
Không dè Tự tánh năng sanh các pháp.
Trong pháp dạy
người, tùy căn cơ duyên nghiệp cao thấp, nặng nhẹ của từng người mà các vị Tổ
thiền tông tự biết phải có những câu hỏi hoặc đáp khác nhau, hoặc có khi ngậm
miệng chẳng nói năng, hoặc có lúc lại dùng hèo, dùng gậy, cú, đấm, vv… để khai
thị kẻ đối diện hốt nhiên tỏ ngộ tự tánh.
Với lý đạo, tất
cả các pháp đều như huyễn hoá. Ngôn từ, chữ nghĩa, dù là chữ nghĩa trong kinh
điển đều cũng không ra ngoài tướng ảo hóa nầy. Mà đã là tướng ảo hóa thì làm
sao có thể dùng nó để diễn tả, hay nói lên chỗ cùng tột chơn thật của đạo được.
Phải là tự chính mình lìa được tất cả các tướng ảo hóa này mới mong lọt vào cửa
đạo. Thế nên Sơ tổ Bồ-đề Ðạt-ma khi nói "Bất lập văn tự" chẳng có
nghĩa là hoàn toàn không dùng văn tự, mà có nghĩa là không dụng "Tướng"
của văn tự, ngôn ngữ để truyền pháp vậy. Không dùng tướng văn tự, cũng có nghĩa
là lìa văn tự, vượt thoát trên văn tự, không văn tự. Không văn tự ở đây tức lìa
các tướng, để ngay đó tự không gì vướng mắc, trói buộc, tức là giải thoát vậy.
Ðây chính là chỗ hàng hàng châu ngọc tuông ra từ cảnh giới giải thoát, nói thật
nhiều mà thật chẳng có gì gọi là nói, cũng như cái im lặng vi diệu như sấm, như
sét của Phật và chư Tổ, chẳng nói nhưng thật đã nói, đã chỉ quá rõ ràng, trọn
vẹn, tất cả đều phơi bày trước mắt chúng ta. Ở chỗ này, trong Kim-cang kinh,
Phật đã phơi bày tất cả ruột gan, tha thiết chỉ bảo, nói xa nói gần với các đệ
tử của mình: muốn vào tri kiến Phật phải nghe, phải thấy, phải hiểu "trên
lời, vượt ý" khi Ngài nhắn nhủ : ‘ Suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp mà
môi ta chưa hề động.’ Sự vi diệu và chân thật chính là chỗ này vậy.
Khi dạy người,
ngôn từ hay hành động vượt thoát của các Ngài không ngoài mục đích trợ giúp
phương tiện cho người đối diện lìa kiến chấp, tự xóa tan toàn bộ vô minh (mà
con người tập nhiễm từ lâu đời lâu kiếp) mà họ đã tự nhận lầm vì chấp ngã qua
cái biết của lục căn, lục thức. (Thật ra, cái biết đó chính là cái biết của
vọng tưởng, của sanh tử nhưng cũng ít ai dám quay lưng lại với nó được, bỡi
nặng chấp ngã) Một khi vô minh đã bị triệt tiêu, ngay đó nhận rõ thật tánh của
các pháp, cũng là lúc tự mình khám phá được chính mình vậy.
Ðối với Phật
pháp, dù tu pháp môn nào đi nữa mà qua chữ nghĩa, ngôn từ thì chúng cũng chỉ là
phương tiện dẫn dắt, dò dẫm, quan sát bên ngoài mà thôi, bỡi chúng (ngôn ngữ),
thậm chí kể cả tri thức cũng đều là sản phẩm hư giả (hữu-tướng) của vọng tâm
sanh diệt, nên chẳng thể thâm nhập, với tới được chỗ thật tướng mà không tướng,
vô sở đắc của chơn tâm, cảnh giới của Thánh trí tự chứng, nhất như, phi sanh
diệt.