Lúc ban sơ, sư
Pháp-Thường đến tham vấn Mã-Tổ Đạo-Nhất.
Sư hỏi: - Thế nào là Phật?
Tổ đáp: - Tức tâm tức
Phật.
Chợt nghe, Pháp-Thường
đại ngộ.
(Truyền Đăng-lục)
Chỉ một câu đáp ngắn của
Mã-Tổ, võn vẹn có bốn từ "tức tâm tức
Phật" mà ngay đây sư Pháp-Thường đại ngộ. Thật là hy hữu !
Thế
nhưng nói sư ấy ngộ, như vậy là ngộ làm sao, ngộ cái gì?
"Tức
tâm tức Phật", theo sự hiểu biết thông thường mà hầu như ai ai trong chúng ta, những người đang tu Phật, dù theo Tông
phái nào, Pháp môn nào, chỉ cần vừa chợt nghe qua những lời đối thoại đó, câu
nói xuất phát từ miệng ai đó vừa lọt vào tai mình một cách rành rọt, hay câu
chữ vừa thoáng qua rõ ràng trước mắt, thì mọi người đều tức khắc nhận ra được ý
nghĩa của câu đáp, liền có thể hiểu ngay rằng "tâm là Phật",
"Phật là tâm" hoặc "tâm này là Phật" hay "tâm ấy
là Phật", "tâm kia là Phật"
vv… và vv.
Tuy
nhiên, nếu ai ai trong chúng ta cũng đều có chỗ hiểu như thế thì dẫu hiểu mọi
lời, mọi sự đến cùng kiếp cũng chẳng thể nào tỏ rõ được "như thật" ý
nghĩa câu đáp mà cũng là lời khai thị của Mã-Tổ, nghĩa là đồng "một"
cùng với cách hiểu, sự hiểu như Pháp-Thường không khác, tức "vừa chợt nghe
thì hốt nhiên đại ngộ", "vừa
chợt nghe thì bất giác bừng tỏ Phật tâm", "vừa chợt nghe thì diệu
nhập Phật tánh"..vv…vv
Nói
một cách rõ ràng hơn, y như Pháp-Thường đã lãnh thọ được ý chỉ của Mã-Tổ, thì
câu đáp "tức tâm tức Phật" vừa lìa miệng Tổ, cũng ngay sát-na đó chợt
lọt vào tai mình, thì người thính pháp liền tự chuyển não, tự vượt thoát khỏi
bản ngã, tự vượt thoát khỏi cái nghe, cái biết của tâm ý thức để ngay đó thấy
nghe hay biết bằng cái tánh nghe vốn dĩ tự sẵn có, thường hằng, tự tại, để tự
đồng "một" cùng chỗ Pháp-Thường ngay ấy "đang-là" không
khác. Cũng có nghĩa là người thính pháp tức thời bừng tỏ tánh Phật chúng sanh,
cũng là hốt nhiên khám phá hình hài chơn thật vốn tự sẵn có xưa nay chưa từng
sanh diệt của mình, cũng là tự bừng tỉnh cơn mê từ muôn thuở, là giác bổn tánh,
là hốt nhiên biết như thật rằng từ lúc cha mẹ sinh ra cho đến giờ, một sát na
trở về trước mình đã lầm, không tự chủ tự tại, đã sống trong huyễn ảo mộng mị
của vọng thức biến hiện hư dối, lừa phỉnh mà cứ tưởng là "thật có" vì
chấp ngã; một sát na sau thì tự bừng tỏ
tánh thấy biết sáng suốt tuyệt đối, tự chủ tự tại, vô ngại đến đi, vạn pháp tự
"như" truớc mắt, biết như thật nên "không lầm nhơn quả", vô ngã chơn thường, thông tỏ
nhứt thiết pháp tánh không tự tánh.
Bằng
ngược lại, nếu căn cơ, trí tuệ, duyên phước của những người đang hành trì pháp
Trực-chỉ của Đạt-ma Tổ-sư (cũng là Chánh-pháp Nhãn-tạng của Thế-tôn) không được
như Pháp-Thường, nghĩa là ngay khi câu nói"Tức tâm tức Phật" hoặc những lời khai thị
tương tợ vừa lìa miệng Tổ, tai chúng ta vẫn có nghe đó, nhưng trực
giác (kém cỏi, yếu ớt) không bắt nhịp theo kịp để diệu nhập vào cảnh giới chơn
như không gốc gát, vô tâm, phi tác ý mà Tổ đã thể hiện bằng lời, cũng là dụng
của diệu tánh, để được cùng Tổ "đang-là", cũng là tự "một"
trong chánh niệm, tức đương niệm chơn thường, sáng suốt, không một vật, thì mỗi
người trong chúng ta chỉ còn một cách là đợi dịp khác để thử thách thêm nữa,
hoặc nên chọn một pháp môn khác thích hợp hơn với căn cơ của mình để tu là
thượng sách. Bằng vận dụng tri thức sanh diệt để nghĩ suy, lý giải, biện biệt
đúng sai bằng cái tâm phân biệt thường tình trong lẽ tương đối của nhơn quả,
thì liền cùng với cái chỗ "biết - giác" tuyệt đối không sở, không
năng, vô tướng, vô tác kia của chư Tổ, thì liền là hai, là khác, là cùng nó bị
cách chia, bị che chắn bỡi chính cái tâm ý thức khởi niệm phân biệt, suy lý,
nghĩ ngợi của mình. Cũng như khi ấy dẫu ai đó có đem miệng mồm, chữ nghĩa ra để
mà giảng giải cho người khác có thể hiểu được cái nghĩa đích thật của "tức tâm tức Phật" kia (nghĩa đích thực còn
có thể gọi là đệ nhất nghĩa) thì dẫu có nói đến trọn đời, cùng kiếp cũng
vẫn cùng "nó" xa rời, chia cách, là khác là hai, là gãi ngứa ngoài
giày, nếu không muốn nói là ngàn trùng xa thẳm, dấu tích mịt mờ, khó cùng được
như Pháp-Thường hốt nhiên "đang-là" một chỗ.
Tại
sao cũng cùng một câu đáp có bốn chữ "Tức Tâm Tức Phật", ấy thế mà
Pháp-Thường chợt nghe thì liền đại ngộ, liền sáng tỏ Phật tâm, thấu suốt bổn
tánh, cũng là tánh thấy biết tuyệt đối hiển hiện, còn tôi đây cũng được nghe
câu đáp ấy, cũng hiểu ý nghĩa của câu nói "tâm kia là Phật", mà sao
đến cùng kiếp cũng khó ngộ ra để được cùng một chỗ như Pháp Thường hốt nhiên
sáng suốt không lầm nhơn quả? Tại sao? Tại sao?
Cũng
đều gọi là Phật pháp, cũng cùng một giáo lý dạy người để cứu cánh thâm nhập
Phật tri kiến, hầu không lầm nhơn quả để tu hành cho đến giải thoát sanh tử,
thế nhưng tuỳ từng căn cơ, trí tuệ, phước đức, hạnh lành, nghiệp dữ của mỗi
chúng sanh mà từng pháp dạy người của Thế-tôn tự có chỗ cao thấp khác nhau,
khiến người tu hành cũng tự có chỗ giác ngộ Phật Đạo cách đốn tiệm, thấp cao,
nên Thánh nên Hiền sai biệt .
Cho
nên, phương tiện để người tu học cứu cánh diệu nhập Phật tâm, cũng là sáng tỏ
Phật tánh, cũng là khám phá "đệ nhất nghĩa đế" mà chư Phật ba đời
quá, hiện, vị lai muốn nói cùng thế gian, bằng một cách nào đó, mau chậm cao
thấp có khác nhau, đã khiến cho sự khác biệt một trời một vực của ba thừa giáo
và Chánh-pháp Nhãn-tạng càng thêm rõ nét
vậy. Đó là điều chân thực mà không ai có thể phủ nhận.
Bỡi
vậy, cũng cùng một câu đáp đó mà khi cơ duyên chín mùi, nghĩa là phải thời thì
Pháp-Thường đại ngộ, mà trước đó không lâu, cũng một câu đáp đó mà chính tự
thân Pháp-Thường vẫn phải bị mờ mịt, còn không ngộ ra Phật tánh, huống là người
khác chưa hội đủ được các duyên lành.
a)
Thông thường, gần như mỗi người trong chúng ta đều hiểu câu đáp đó của Mã-Tổ
Đạo-Nhất như thế này: Tâm ta là Phật,
Phật cũng chính là tâm ta đó. Hoặc
cũng có thể nói và hiểu như là Phật là tâm, tâm là Phật, hay Phật tức tâm, tâm tức Phật, Phật tâm chỉ một
không khác không hai, vv… và vv… chỗ hiểu đó không khác nhau mấy vậy.
Tuy
nhiên, nếu chúng ta hiểu như thế, thì chỗ hiểu đó có hợp với cái bụng của
Thiền-Tổ khi Ngài đáp câu hỏi của Pháp-Thường không, khi mà câu đáp đó cũng là
lời khai thị, là nhát búa nặng ngàn cân đánh trực diện vào cái "trí hiểu
biết nhỏ nhoi có hạn lượng" của tâm ý thức con người, được bao phủ bỡi lớp
vỏ cứng ngàn đời của ngã chấp vô minh?
Nếu
hiểu như thế là không gì chút khế hợp với tâm ý của Thiền-Tổ, nghĩa là đối với
Tông-môn của Bồ-đề Đạt-ma Tổ-sư, thì người hiểu như thế là hoàn toàn không hiểu
gì hết, là chỉ ngấp nghé ngoài sân, ngoài thềm, còn lâu xa mới lọt vào được cữa
Tổ.
Nghĩa
là sao? Nghĩa là chỗ hiểu biết đó là cái hiểu biết của tâm ý thức phân biệt,
còn kết buộc trong vọng nghiệp vô minh nhơn quả, còn đủ cả tứ tướng sanh diệt
tương quan vướng mắc, ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả. Nghĩa là còn có người hiểu là Ta, còn có cái được hiểu là Tâm
kia, còn có cái để so sánh, phân biệt với cái được ta hiểu là Phật . Chỗ hiểu
đó là chủ thể "Ta" hiểu, có tương tác để được hiểu là "tâm"
kia, là "Phật", là cùng với Phật với Tâm với Ta là hai là khác, là
tất thảy tướng sanh diệt trói buộc trong nhơn quả sanh diệt. Thế thì chỗ hiểu này đối với Tông-Thiền của
Bồ-đề Đạt-ma, cũng là Chánh-pháp Nhãn-Tạng của đức Phật là cái hiểu lạc đề, là
hoàn toàn không hiểu gì hết. Bỡi đối với Tông môn này, nói hiểu, nói hội tức
cũng có nghĩa là ngộ, là giác cái tánh biết bổn lai, là bừng tỏ tánh biết sáng
suốt tuyệt đối, tự tại, là sáng tỏ tánh Phật chúng sanh, là khám phá Thể và
Dụng của thường đạo huyền đồng, Tánh cùng Tướng dung thông, là cùng Phật, cùng
Tâm, cùng Đạo "đang-là" nhứt như không năng không sở, tự
"một" tuyệt đối, không hai không khác.
Cái
tánh biết bổn lai thì linh diệu, huyền
mầu, sáng suốt tuyệt đối, mà chỗ dụng lại cứ tự nhiên như nhiên, như nước chảy
mây trôi, nắng nóng giá lạnh, như nhật nguyệt vần xoay, khiến có bốn mùa luân
chuyển nuôi sống muôn vật mà tự nó không thấy làm, hay nói một cách chính xác
hơn là làm một cách vô tâm, bình đẳng, phi tác ý. Nhờ tánh "diệu" nên dù không khởi
vọng niệm phân biệt mà mọi thứ trước "mắt tâm như" vẫn tự biện biệt rõ ràng, vì tất thảy pháp đều từ chơn
tánh, cũng có nghĩa là từ một pháp duy nhất, độc hữu, diệu mầu (tạm gọi là một
pháp duy nhất) mà hiện hữu các pháp tướng như thật như hư, như không như có,
nối tiếp nhau sanh diệt trùng trùng, vô biên bất tận. Nói vô
phân biệt là nói không dụng tri thức phân biệt kết buộc trong nhơn quả tương
đối để thấy nghe hay biết, cũng là tự tánh "biết" vẫn thường biện
biệt rõ ràng mọi thứ trước mắt. Vì đó là diệu dụng của Phật tánh. Chỉ vì do
chúng sanh chấp ngã, vọng tưởng chấp lầm huyễn pháp làm thật có, niệm niệm vọng
sanh vọng diệt trùng trùng trong từng mỗi sát na không dứt nên cái tánh biết tự
nhiên như nhiên theo vọng ngã mà trở
thành trí thuật, ưa suy nghĩ thiệt hơn, ưa phân biệt phải trái, lợi hại, lành
dữ, tốt xấu theo hai đàng (nhị nguyên) khiến chúng sanh ấy tự quên mất cái tánh
sáng thường sáng bổn lai, chơn như tự tại, vô phân biệt vốn tự sẵn có của
mình.
b)
Vậy thì phải hiểu làm sao để được gọi là hợp với bụng của Mã-Tổ, cũng là cùng
chư Tổ tâm tâm khế hợp, là không ra ngoài Chánh-pháp Nhãn-tạng của Như-lai,
cũng là cái hiểu vượt cách, nhanh chóng, chơn thật, không ra ngoài Tông môn của
Đạt-ma Tổ-sư. Trước hết, người cầu học pháp môn này như Pháp-Thường phải là
người đa căn lành, nhiều phước đức, thông minh, linh lợi, lanh cơ, giàu trực
giác, chợt nghe liền nhận ra cách dùng từ ngữ độc đáo của Mã-Tổ trong lời đáp
này nói riêng, cũng như của chư Tổ Thiền-tông và các Thiền-sư nói chung, và đó
cũng chính là cái ổ khóa bí hiểm, vô hình, vi nhiệm để người cầu học nương đó
mà tự vượt thoát chính mình, cũng là
lách tọt vào cữa Tổ. Hễ một khi đã thật sự chợt vào thì không còn có lối
để ra, vì rằng ngay đó vô minh chợt tan biến, triệt tiêu, trước mắt tất thảy
thênh thang, rỗng hoát, tâm thể sáng trong, như nhứt, vô biên, vô hạn lượng,
không còn cữa nẻo, chẳng chỗ đến đi, không lầm nhơn quả, tất thảy pháp biến
hiện mất còn không chỗ dính dấp, như hoa đóm trong không. Chỗ thấy nghe hay
biết này là giác trí vậy.
Cho
nên, nếu hiểu câu đáp ấy của Tổ như mọi người trong chúng ta thường hiểu, thì tại
sao Mã-Tổ đã không trả lời bằng những câu đáp đại loại cùng một ý nghĩa như:
"Kỳ tâm tức Phật - Tâm kia là
Phật" hoặc "Phật tức tâm" hay
"Tâm Tức Phật" vv… và vv… mà lại là "Tức tâm tức Phật".
Bỡi
"Tức" của "Tức-tâm", "Tức-Phật" chỉ trực tiếp vào
hiện thực tuyệt đối ngay tâm, trước mắt, khiến trực giác của người đối diện
ngay ấy khám phá bổn tâm thực sự "đang là" cùng hiện thực tuyệt đối,
cũng là "Tức" trong nhứt niệm đương niệm, tròn đầy sáng trong vô nhất
vật. Người căn trí vào bậc thượng, phát huy trực giác tối đa nương đây mà tự
ngoảnh đầu khám phá chính mình. "Tức" trong khoảng một phần
"sát-na", mà trước niệm không sanh, sau niệm không dứt, hiện tiền là
nhứt niệm, cũng vô niệm sáng suốt tuyệt đối, là chơn ngã, chơn tâm, Niết-bàn
thanh tịnh. Nhận ra hiện thực tuyệt đối trước mắt, cũng là chơn tâm hiển lộ thì
cũng tức ngay ấy, ngộ ra thể tánh chơn thật của bổn tâm, thì liền sáng suốt, để
tự trả lời Phật là gì một cách chơn
thật, mà trong đây vừa chợt khám phá, biết như thật Tánh-Tướng viên dung, Phật-Tâm-Đạo
huyền đồng nhứt như, Thể vàTánh chẳng phải một, chẳng phải hai cũng không phải
khác, mà như sóng với nước. Biết như thật từ một pháp duy nhất chơn như, thường
hằng, bất biến mà thường tuỳ duyên, thông lưu diệu mầu, khởi sanh vạn pháp. Vạn
pháp sanh khởi trùng trùng vô lượng vô biên mà từng mỗi pháp không mất tánh
"diệu" chơn như tự tại, tuỳ duyên mà vẫn bất biến.
Tánh
biết sáng suốt tuyệt đối không sở không năng, không chung không thỉ, như như tự
tại, là đệ nhất nghĩa, là tuyệt đối mà không miệng mồm, trí giải nào có thể với
tới được vậy. Bỡi cái gì có thể với tới được "nó" thì tự nó chẳng còn
là tuyệt đối nữa, chẳng còn là đệ nhất nghĩa đối với chỗ độc hữu diệu mầu, phi
sanh diệt của tự nó, chẳng còn là thường đạo chơn thật nữa, mà khiến cùng nó
chia lìa, là hai là khác, là có chỗ tương tác, vướng mắc trong nhơn quả rồi.
Một
vị Thiền Tổ đã nói: "Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ - Bằng Tâm
có chỗ trụ, tức chẳng phải trụ" tức có nghĩa là, hoặc nếu trụ tâm vào sắc,
hoặc thinh, hay hương, vị, xúc, pháp
thì đó tức chẳng phải là thường trụ, chẳng phải là "trụ vô sở trụ -
trụ không chỗ trụ, tức chơn trụ" trong tính cách vượt thoát nhơn quả; có
chỗ trụ tức chẳng phải tự "một" cùng đệ nhất nghĩa.
Tức
tâm tức Phật cũng là "Pháp tánh Như-Thị", cũng là "Sắc tức thị
Không, Không tức thị Sắc", là Sắc, Không, Không, Sắc huyền đồng, viên dung
như nhứt, là tất thảy pháp vô ngã chơn thường, là chơn không diệu hữu, mà trong
đây chỉ có tự chứng tự tri, tự biết rõ như thật mà nói không thể tới được nữa
vậy.
Cho
nên, ở đây sư Pháp-Thường đã hốt nhiên trực ngộ câu đáp của Mã-Tổ "Tức tâm
tức Phật", cũng tức là căn trí cao vời nương cái phương tiện chỉ thẳng kia
mà trực giác tỏ ngộ thể tánh tuyệt đối của chính mình ngay ấy
"đang-là", cũng là Phật tâm, chơn tâm hiển lộ, khám phá tự thể chơn
như, thường hằng, vô ngã, sáng suốt tuyệt đối, không lầm nhơn quả.
Chánh
pháp Nhãn-tạng của Như-lai đặc biệt riêng dành tiếp độ những người thượng căn,
thượng trí, những người phước đức, duyên lành trọn đủ, là một pháp môn vi nhiệm
vô cùng, từ xưa tới nay được tôn xưng là tối thượng thừa pháp của Phật giáo
vậy. Tuy nhiên, trong thời nào cũng có những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề,
phước đức kém cỏi, trí tuệ không bằng một đóm lửa cỏn con, tự thân không sao
vuợt nổi sự trói buộc của bản ngã vì danh lợi hồng trần, vì vô minh vọng nghiệp
nhơn quả kết dệt quá sâu dày, khiến ma tâm lừng lẫy, ngã mạn cao ngạo, chẳng
những căn cơ không đủ để tiếp nhận nổi pháp môn này của Thế-tôn thì thôi, lại
còn đem lòng đố kỵ, dùng miệng lưỡi tri thức phàm tình chê pháp, báng Tổ, phủ
nhận Chánh Pháp Nhãn-tạng thậm vi thậm diệu của đức Phật.
Thật
tội nghiệp cho những chúng sanh đang tự tạo nghiệp dữ mà không hề hay biết
!