Các em học sinh Thái Lan học thiền
Khoa học ngày nay với những thí nghiệm tiên tiến về hai khía cạnh tâm
lý và sinh lý của con người càng thấy rõ sự tương tác qua lại rất chặt
chẽ giữa chúng với nhau: một nỗi buồn, vui, giận hờn, thương yêu, lo
lắng hay an nhiên tự tại… đều làm cơ thể tiết ra những hóc-môn tương ứng
có thể dẫn đến những nguy cơ bệnh tật, tử vong hoặc ngược lại có thể
làm cho con người vượt qua những khổ đau của tâm sinh lý, của bệnh tật.
Nhật Bản, một nước châu Á nhưng là một cường quốc kinh tế của thế giới
hiện nay, từ lâu đã biết ứng dụng Thiền vào mọi hoạt động của con người
và ta được biết như là: trà đạo, kiếm đạo, nhu đạo, cung đạo, hoa đạo…
Đạo ở đây có nghĩa là thiền và cũng có nghĩa là nghệ thuật. Vào buổi
chiều, sau khi tan việc trên đường về nhà, vị thương gia ghé vào một
phòng trà đạo, và chỉ sau khoảng nửa giờ với những nghi thức dùng trà là
vị ấy hầu như phục hồi lại toàn bộ sinh lực đã mất trong ngày. Cũng vì
“tự mặc cảm” thấy mình không xinh đẹp như một nữ diễn viên Mỹ mà hơn 80%
số nữ sinh học lớp 8 ở Anh mắc bệnh trầm cảm. Tâm trí quả thật đóng một
vai trò rất quan trọng cho sức khỏe của con người. Tiến sĩ Girish
D.Patel là Bác sĩ Tâm lý học tại Mumbai (Ấn Độ), đã có trên 5.000 buổi
thuyết trình ở 40 nước với những bài nói chuyện thu hút về “Sức khỏe
trong tầm tay bạn” - những kỹ năng quản lý cuộc sống cho những cá nhân.
Các bạn trẻ tham dự hội trại “Tuổi trẻ Phật giáo” lần 3 năm 2008
do báo Giác Ngộ tổ chức thực tập thiền hành - Ảnh: Tâm Thành
Thông qua Trung tâm Các giá trị sống (TP.HCM), ông vừa có những buổi
nói chuyện ở Việt Nam. Ông trao đổi về phép luyện tâm hồn như sau:
Một câu chuyện như thế này: Có một cô bé 12 tuổi bị tai nạn và mất.
Người cha khóc nhiều tháng trời vẫn chưa nguôi nỗi đau. Một đêm, ông ta
khóc rồi chìm vào giấc ngủ, mơ thấy rất nhiều thiên thần. Người cha vui
mừng vì thấy con gái mình cũng trở thành một trong những thiên thần đó.
Song niềm vui vụt tắt khi ông nhìn thấy tất cả ngọn nến trên tay các
thiên thần đều sáng, chỉ riêng ngọn nến trên tay con gái ông là tắt. Ông
tiếp tục buồn rầu và khóc.
Ông hỏi cô con gái: Tại sao ngọn nến của con không sáng? Người con
trả lời: Cha yêu quý, những người bạn thiên thần của con rất tốt bụng,
họ cứ thắp mãi cho ngọn nến của con cùng cháy. Nhưng hễ nến vừa sáng lên
thì giọt nước mắt của cha nhỏ xuống lại làm nó tắt đi, không sáng được.
Người cha từ đó không khóc nữa và sống hạnh phúc.
Câu chuyện cho thấy trái tim hiểu ngôn ngữ của cảm xúc và thường bị
vùi giập bởi những cảm xúc đau buồn. Còn những xung đột thường nảy ra từ
cái đầu: suy đoán, tổn thương… Chỉ có tìm ra logic hợp lý mới chữa trị
được cái đầu của mình. Nhưng phải biết kết hợp giữa cái đầu và trái tim
để kiểm soát tâm trí. Muốn vậy phải có phương pháp luyện tâm hồn. Các
nhà khoa học cũng đã nghiên cứu cho thấy 70% bệnh của con người là từ
tâm bệnh mà ra, 30% còn lại mới do di truyền, thể xác, môi trường… (1).
Cơ sở lý luận của Thiền là sự tập trung tư tưởng. Khi bộ óc được tập
trung vào một đối tượng thì tạo ra một sức mạnh nội tâm như một ngọn đèn
pha chiếu sáng, khiến thấy rõ mọi sự vật; trong khi đó nó làm ức chế và
khiến những phần còn lại của vỏ não được nghỉ ngơi, thanh thản. Tâm
trí, nếu không được huấn luyện đúng cách, thường tán loạn, vọng tưởng,
chạy theo những dục vọng gây ra những hậu quả đáng tiếc về mặt đạo đức,
luật pháp… Phương pháp thực hành Thiền có nhiều cách, nhưng có một cách
đơn giản mà hiệu nghiệm, đó là: Quán tưởng hơi thở. Vị ấy ngồi yên lặng,
lưng thẳng, mắt khép lại và để ý hơi thở vô ra. Hơi thở này đang đi
vào, vị ấy biết rõ như vậy; hơi thở này đang đi ra, vị ấy biết rõ như
vậy. Trong khi đang theo dõi hơi thở như vậy, nếu có những hình ảnh, kỷ
niệm, suy nghĩ, lo lắng dù chúng có đẹp hay xấu, vui hay buồn thì vị ấy
đừng để ý hay bận tâm, phê phán. Sau một thời gian lâu hay mau tùy theo
sự nỗ lực của từng người mà sẽ có hiệu quả sớm hay muộn. Thước đo kết
quả của sự luyện tâm là vị ấy cảm thấy sức khỏe thân tâm của mình ngày
càng được tốt hơn: ngủ ngon giấc không chiêm bao mộng mị, bớt lo lắng
phiền não, vui vẻ, tập trung vào công việc đang làm một cách tự nhiên.
Một sự luyện tâm như vậy sẽ dần tạo ra một phản xạ có điều kiện mới thay
thế cho những thói quen xấu cũ.
Thiền có công năng chuyển hóa rất lớn
đối với người trẻ - Ảnh: Bảo Thiên
Giáo dục học đường của nước ta hiện nay có những mặt ưu và những mặt
khuyết, có những điều làm được và những điều chưa làm được. Báo chí đề
cập nhiều đến bệnh chạy theo thành tích, gian lận trong thi cử, đạo đức
học đường xuống cấp… Trước những cám dỗ của văn minh vật chất hiện đại,
một bộ phận sinh viên, học sinh mất hoặc không có phương hướng, lý tưởng
sống, đánh mất truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; và mất văn hóa
cũng có nghĩa là mất nước! Những hiện tượng này quả làm nhức nhối cho
các bậc phụ huynh, nhà trường và nhà nước vì họ sẽ là những người thay
thế và đứng ra gánh vác những trọng trách của đất nước giao phó. Là
những nhà giáo dục, chúng ta không buồn nản mà phải nhìn thẳng vào thực
trạng và tìm cách giải quyết.
Trong nhiều giải pháp cho những vấn nạn học đường ở nước ta hiện nay
thì Thiền có thể chăng là một tiềm năng khả thi, một nét đẹp của văn hóa
học đường.
TT.Thích Tâm Đức (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam)
(1) Báo Tuổi Tre, 4-12-2008