Chương
10. Phật giáo và vấn đề hoả táng
Hiện nay
trên thế giới người ta đã sử dụng nhiều hình thức mai táng khác nhau. Mỗi
hình thức chọn lựa cho mình khi từ giã cõi đời đều mang một triết lý nhân sinh
khác nhau. Nhưng xét qua nhiều khía cạnh và ý nghĩa, tựu chung lại có 5
hình thức chính, đó là: địa táng, hoả táng, thuỷ táng, huyền táng và thứ năm là
điểu táng. Thủy táng là bỏ xác chết xuống nước cho cá ăn. Điểu táng là đem
xác chết lên núi cho chim ăn. Huyền táng là táng treo trên vách núi. Ở
Việt Nam
chỉ có địa táng và hỏa táng, không có thủy táng, huyền táng và điểu táng.
Trong năm cách an táng, Hỏa Táng
đang trở thành phương pháp an táng phổ thông hiện nay trên thế giới. Ở Canada, phần
lớn người chết được thiêu, sau đó tro cốt được gửi trong các nhà thờ hay nhà
chùa. Nếu người chết được chôn theo cả quan tài thì được chôn xuống huyệt đất.
Người ta đào những cái hầm khá lớn và sâu, rồi chia ra thành từng ngăn. Mỗi
ngăn cho một quan tài. Mộ không được xây thành nấm mà được san bằng để trồng cỏ
lên. Trên mộ chỉ đặt một tấm bia. Còn ở Hồng Kông, việc mua đất để chôn rất đắt
nên hầu hết người chết cũng được hỏa táng. Người ta gửi những bình tro cốt vào
nghĩa trang, nhà chùa hoặc nhà thờ. Mỗi bình tro được khắc ghi như một tấm bia.
Ở Hoa Kỳ, vào thập niên 70 thì 10 người chết mới có 1 người thiêu, nhưng hiện
nay ở nước Mỹ cứ 4 người chết là có một người thiêu tức là 25%. Người ta tiên
đoán vào năm 2025 thì số người chết muốn thiêu sẽ lên đến 50%. Riêng ở Việt Nam,
do nhu cầu bảo vệ môi sinh và dân số gia tăng nhanh chóng, chính quyền khuyến
khích người dân nên chuyển sang phương thức hoả táng.
Trở lại câu hỏi là Phật giáo có
chủ trương hỏa táng không? Chúng tôi xin thưa ngay là Phật Giáo là một tôn
giáo tự do nên rất uyển chuyển trong vấn đề này. Không có luật lệ cứng rắn hay
bắt buộc trong việc an táng. Tuy nhiên tại một vài xứ Phật Giáo, việc hỏa thiêu
thuờng được đa số tín đồ thi hành.
Đối với Phật Giáo Ấn Độ, chết
thì thiêu đó là làm theo phong tục sẵn có của Ấn Độ thời cổ chứ không phải là
một sự bắt buộc gì cả và mang ý nghĩa theo triết lý của Ấn Độ nhằm nhắc nhở
rằng khi chết rồi thì đừng nên luyến tiếc gì nữa, vì họ tin rằng tro cốt cuối
cùng sẽ hợp nhất với lực đã khai sáng ra nó. Không riêng gì Phật Giáo mà đa số
các tôn giáo bắt nguồn tại Ấn Độ như là Ấn Độ Giáo và Kỳ Na Giáo khi chết đều
áp dụng phương cách Hỏa Táng.
Trong Phật giáo Tây Tạng cũng có
tục Hỏa Táng với những pháp hành đặc biệt cho nghi lễ này. Một số nước
theo truyền thống Phật giáo Nam Tông như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cao
Miên, Lào và một phần của Nam Việt Nam thường theo cách Hỏa Táng. Ở các
quốc gia theo truyền thống Phật giáo Bắc Tông, như Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật
Bản và Việt Nam vì ảnh hưởng sâu nặng nhân sinh quan Nho Giáo và Khổng Giáo cho
rằng hỏa táng, điểu táng và thủy táng không hợp đạo lý với người qua đời nên từ
trước đến nay họ thường dùng cách chôn cất hay nhập tháp. Tuy nhiên, theo quan
niệm hiện đại, hỏa táng là một hình thức rất hợp vệ sinh, bảo vệ môi sinh,
không mất đất, giảm bớt được nhiều vấn đề như: xây mộ, tảo mộ, bảo quản mộ, cải
táng, di dời… cho nên việc hỏa táng càng ngày càng được phổ biến rộng rãi trong
cộng đồng Phật giáo. Họ quan niệm nên dành đất cho người sống ở hơn là xây đầy
những mộ chí, những nghĩa trang cho người đã nằm xuống.
Cho nên, trở lại câu hỏi nên
chôn hay hỏa táng, chúng tôi thiết nghĩ còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố, từ cảm quan
của mỗi thành viên trong gia đình đến môi trường sống chung quanh và nhất là
quan niệm cá nhân về sự sống và chết của con người. Vì thế việc chọn lựa
này là do quyết định của người qua đời lúc còn sống đã để lại di chúc còn không
thì người thân trong gia đình nên bàn thảo để có quyết định chung.
Nói tóm lại Phật Giáo không chủ
trương hỏa táng cũng như địa táng. Mỗi phương cách, tuỳ thuộc từng địa
phương, từng quốc độ và từng thời gian, đều có những lợi điểm và bất lợi điểm
riêng, cho nên việc chọn lựa phương pháp an táng là do quyết định của gia quyến
hay lời dặn dò của người sắp chết.
Sau khi hoả thiêu, vấn đề được
đặt ra là có nên chôn tro cốt xuống đất, gìn giữ để thờ cúng tại nhà, tại chùa
hay đem rải xuống sông biển?
Đức Phật không để lại một huấn
thị rõ ràng về vấn đề này, vì Ngài muốn chúng ta hiểu xác thân chỉ là sự hỗn
hợp của vật chất và sau khi chết, những thứ này lại trở về các nguyên tố Đất,
Nước, Gió, Lửa. Phần tro cốt còn lại chỉ là biểu tượng của nguời qua đời,
là người thân mà ta thương yêu. Chúng ta nên kính trọng, tuy nhiên, không
nên quyến luyến quanh những biểu tượng này, không nên sống mãi với quá khứ của
họ hay nghĩ rằng chúng ta chẳng còn liên hệ gì với người đã chết.
Một số người thích thờ cúng tro
cốt tại chùa hay tại nhà, một số người khác lại đem chôn, hoặc đem tro cốt rải
xuống biển hay xuống sông để gieo duyên với các loài thủy tộc hay rải xuống
rừng để gieo duyên với các loài chúng sinh sống trên đất hay một nơi nào đó
theo ý muốn v.v…
Gần đây nhất, theo hãng thông
tấn AP cho biết công nghệ khoa học hiện đại đã biến tro cốt người quá cố thành
viên kim cương để mang theo trong người. Họ đã thực hiện được 1000 viên
kim cương từ 500 hũ tro cốt của 500 gia đình người quá cố. Những viên kim
cương nhân tạo này đã đưa ra một lựa chọn mới cho kỹ nghệ mai táng. Giá làm kim
cương tuỳ thuộc vào kích cỡ, khoảng 2.500 USD cho viên kim cương 0, 25 cara và
khoảng 14.000 USD cho viên kim cương 1 cara.
Đó là các phương cách để giải
quyết phần lưu lại những gì của người quá vãng. Tuỳ theo niềm tin, áp dụng
phương cách nào cũng không có gì sai cả, nhưng là Phật tử chúng ta đừng nghĩ
rằng để tro cốt ở những nơi thiêng liêng như chùa chiền, người quá vãng sẽ được
an toàn, được nghe câu kinh tiếng kệ và không bị nghiệp lực lôi kéo. Việc để
tro cốt trong chùa không có ý nghĩa gì hơn là việc biểu lộ niềm kính trọng và
thương yêu với người đã khuất.
Khi thiêu có nóng không hay khi đem chôn xuống dưới
đất có lạnh không?
Sau khi xác thân này hư hoại,
theo Phật giáo, thần thức sẽ tuỳ theo nghiệp lực mà tái sinh vào các cõi tương
ứng với nghiệp nhân mà người kia đã gieo trồng, ngoại trừ các bậc đại giác như
Đức Phật, các bậc Bồ-tát, các bậc A-la-hán đã giải thoát khỏi vòng sinh tử luân
hồi.
Thế giới tình thức này không chỉ
có cảnh giới con người, mà còn có các cảnh giới khác nữa, nếu tính từ dưới lên
thì có: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân và thiên. Theo Phật giáo
Nguyên Thủy việc tái sinh xảy ra tức khắc chỉ trong một sát na niệm tưởng,
không để trống khoảnh khắc nào trong trạng thái lưng chừng như làn sóng điện
lan trong không gian, tức khắc được phát sinh trong máy thu thanh hay thu hình.
Sự sinh tử này xảy ra cực kỳ nhanh chóng và được xem là một tiến trình liên
tục. Còn theo Phật Giáo Bắc Tông cho rằng có một số trường hợp có thể phải qua
giai đoạn chuyển tiếp, ở đó chúng sinh mang dạng “thân trung ấm” không hình
tướng, lưu lại trong thời gian từ một đến bảy tuần lễ, thông thường thời gian
thọ sinh là bảy ngày, tuy cũng có thể lâu hơn nữa do sở duyên chưa thích hợp.
Cũng theo thuyết này, thời gian bốn mươi chín ngày này rất là quan trọng vì các
nghiệp lành và nghiệp dữ dằng co tâm thức, làm mê mê tỉnh tỉnh, phải cảm thọ
những điều không yên ổn, không tự tại. Vì vậy có tục lê cúng giỗ cầu siêu
bảy tuần liên tiếp.
Như vậy dù là tái sinh tức thời
hay tái sinh qua giai đoạn chuyển tiếp, mang thân trung ấm, thì thân xác lúc ấy
chỉ còn lại là một cơ thể vật chất, các giác quan không còn hoạt động, mắt
không thấy, tai không nghe, mũi không ngửi, tứ chi không còn cử động, cho nên
không còn cảm giác đau đớn, nóng hay lạnh.