Chương
02. Sự truyền bá Phật pháp
Phật giáo
bắt nguồn từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 TTL[1] tức hơn hai ngàn năm trăm năm trước.
Sau khi Đức Phật Thích Ca Niết Bàn gần hai trăm năm mươi năm, tức khoảng thế kỷ
thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành tôn giáo mang tính thế giới, do công của hoàng
đế Asoka đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật truyền sang các nước Á
Châu và lan toả ra ngoài biên cương đại lục.
Phật giáo được truyền đi hai
hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan,
Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và
được gọi là Phật giáo Nam Truyền.
Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ
Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Và một
hướng thứ ba cũng từ Bắc Ấn truyền sang Nepal vào Tây Tạng. Phật giáo
truyền theo hai hướng sau này bằng ngôn ngữ Sanskrit hoặc được chuyển ngữ qua
tiếng bản địa và được gọi là Phật giáo
Bắc Truyền.
Mặc dù đức Bổn Sư đã không để
lại sự ghi chép những giáo lý của Ngài, nhưng các vị đệ tử ưu tú của Ngài đã
duy trì những lời dạy đó bằng trí nhớ và truyền miệng giáo pháp đó từ đời này
qua đời khác. Những giáo lý của Đức Phật bao gồm những lời dạy trực tiếp
của Ngài và các bài thuyết giảng của các vị đại đệ tử của đức Phật như các Ngài
Xá Lợi Phất, A Nan Ðà, Mục Kiền Liên..v.v.. Mãi cho đến năm 83 TTL, những giáo
lý của đức Phật đã được kết tập thành ba tạng kinh điển qua nhiều lần trước
đây, mới được ghi chép trên lá bối tại Tích Lan lần đầu tiên. Ngày nay kinh
sách Phật được ghi chép bằng kỹ thuật số vào băng từ tính, đĩa nhựa, thẻ nhớ
USB flash[2] và ổ cứng máy vi tính dưới các dạng chữ viết, âm thanh và hình
ảnh.
Những lời dạy của đức Phật được
ghi lại thành ba tạng kinh điển qua hai dạng văn cổ của xứ Ấn thời đó là Bắc
Phạn (Sanskrit) và Nam Phạn (Pali): (1) Luật tạng, (2) Kinh tạng và (3) Luận
tạng mà người ta thường gọi là “Tam Tạng Kinh Điển”.
Kinh Tạng ghi lại những lời Phật
dạy, bao gồm những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu tiên
tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn. Kinh tạng giống như môt bộ sách
thuốc, vì nội dung các bài kinh chứa đựng trong đó, do đức Phật giảng phù hợp với
những hoàn cảnh sai biệt và căn cơ của nhiều người khác nhau.
Luật Tạng ghi lại những giới
luật làm khuôn phép sinh hoạt và tu học của Tăng đoàn. Tạng nầy bao gồm các
giới luật và nghi lễ cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, thể thức gia nhập Tăng đoàn,
truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử trong các trường hợp vi
phạm giới luật,..vv..
Luận Tạng, còn gọi là Vi Diệu
Pháp gồm các bộ luận do các luận sư, đệ tử Phật trình bày, giải thích một cách
có hệ thống và theo chiều sâu giáo lý đạo Phật. Luận Tạng chứa đựng triết lý
uyên thâm nhất của giáo lý Đức Phật, và ngược lại từ những bộ Luận Tạng này,
giáo lý của Đức Phật đã được làm sáng tỏ thêm ra.
***
Qua nhiều thế kỷ với nhiều lần
kết tập kinh điển, số lượng kinh sách Phật giáo có thể lên đến 84 nghìn cuốn. Các
trường phái và bộ phái Phật giáo có nhiều ý kiến khác nhau nhưng cũng nhất trí
đưa một số kinh sách vào trong ba tạng kinh: Kinh, Luật và Luận và đều ghi rằng
đó là lời của Phật nói. Phật tử theo các tông phái khác nhau đặt các bộ kinh và
luận này ở những vị trí khác nhau. Họ cho rằng một số bộ kinh và luận có tầm
quan trọng đối với họ và giữ thái độ khác nhau đối với bộ kinh và luận khác. Từ
tôn kính một số kinh văn cho đến xem thường một vài kinh văn nào đó.
Cũng có một số người nghĩ rằng
Đức Phật chỉ truyền dạy bằng tiếng Pali và cho rằng những bản kinh được ghi
chép bằng ngôn ngữ khác là không đúng. Có những người khác lại tin vào ngôn ngữ
Sanskrit. Cả hai ý nghĩ này đều không đúng. Một khi Phật pháp được truyền sang
nước khác, được tu tập bởi các vị hành giả, thì nó vẫn được tin tưởng là giữ
nguyên vẹn lời dạy bảo của Phật, nhưng rồi dần dần được làm cho thích nghi với
tâm hồn dân chúng địa phương và vì vấn đề truyền thông cốt sao cho dễ hiểu. Như
vậy, khó có thể tránh khỏi một sự khác biệt giữa quốc gia này và quốc gia khác,
do đó chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi của Đạo Pháp khi nó di chuyển từ
chỗ này đến chỗ khác. Tuy vậy, dù cho có khác biệt, nhưng cũng không đi ra
ngoài nguyên tắc mà Đức Phật dạy là Tuỳ
Duyên và Bất Biến. Tuỳ
Duyên là tuỳ theo hoàn cảnh, thời tiết nhân duyên, tuỳ theo văn hoá
và tập tục địa phương mà thay đổi các phương tiện cho thích hợp. Còn Bất Biến là không có sự thay đổi đối
với những yếu lý quan trọng như đặc tính từ bi và bình đẳng hay như giới luật
của Đạo Phật, dù ở không gian hay thời gian nào.
Mặt khác, các nhà nghiên cứu
Phật học phương Tây tìm cách xác định thời điểm xuất hiện của từng bộ Kinh. Họ
đưa ra những giả thuyết về nguồn gốc của một số Kinh Điển Bắc Truyền, một số
cho rằng các Tổ Phật giáo ở Trung Hoa sau này sáng tác ra, nhưng họ vẫn thừa
nhận những giá trị thâm sâu của nó và cho rằng nó vẫn không xa lìa giáo lý ban
đầu của Đức Phật. Khi dùng chữ để diễn tả các kinh loại này, họ dùng từ Sutras of doubtful authenticity tạm
dịch là “nghi kinh” để chỉ những kinh không có nguồn gốc rõ ràng và hai từ Apocrypha và từ Spuriuos (Sutras) để chỉ những kinh
được sáng tác ở Trung Hoa. Khi dùng hai chữ này, họ không có chủ ý xác định ý
nghĩa xấu. Rất tiếc khi chuyển ngữ ra tiếng Việt, các nhà soạn tự điển Anh
Việt, dịch ra là (kinh) ngụy tạo, giả
mạo, ngụy thư, ngụy văn…, mang tính chất xấu, gỉa dối, không tốt.
Có lẽ nên dịch hai chữ này là “kinh sáng
tác” hay “kinh phát triển”
thì đúng hơn.
Các Tổ của Phật giáo, những đệ
tử của Phật, những người biên tập kinh, là những vị đã kiến tính đạt đạo, cho
nên giá trị của kinh không khác gì với những lời dạy của Đức Phật. Lấy một thí
dụ điển hình là Bát Nhã Tâm Kinh,
một số học giả Phật giáo và ngay cả Ngài Suzuki, khi nghiên cứu về thời gian
tính của kinh này thì cho rằng Ngài Long Thọ là tác giả. Nhưng khi nói về giá
trị của kinh này thì không một ai trong chúng ta phủ nhận giá trị tuyệt vời cao
siêu và súc tích của nó. Cũng như kinh
Pháp Bảo Đàn của Đức Lục Tổ Huệ Năng, mặc dầu không phải là kinh do
Phật thuyết nhưng khó có ai trong truyền thống Bắc Truyền có thể phủ nhận được
kinh này.
Nói chung kinh điển Phật giáo
nhiều vô cùng. Riêng Trung Hoa dịch kinh điển Phật đã hơn 1000 năm, cũng không
biết rõ đã dịch được mấy vạn quyển. Số kinh sách Phật đã được dịch và lưu hành,
kể cả các bộ chú giải, giảng thuật của người Trung Hoa gồm hơn ba nghìn bộ,
cộng tất cả là hơn mười lăm nghìn cuốn. Tuy nhiên vì thời gian truyền bá lâu và
đi xa nên khó tránh khỏi những tư tưởng, tập tục và văn hoá bản địa lẫn lộn
trong kinh sách. Vì thế trong kinh của cả hai truyền thống Nam Truyền và Bắc
Truyền đều có dạy dùng Ba Pháp Ấn, Bốn Pháp Ấn hay Một Pháp Ấn để làm dấu ấn
xác minh coi pháp đó có phải là do Phật thuyết không. Ấn là dấu in để ấn chứng.
Ba Pháp Ấn là vô thường, khổ và vô ngã là ba dấu
ấn mang tính pháp định, dùng để chứng nhận tính xác thực của chính pháp. Mọi
giáo lý của đạo Phật đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp
ấn đó thì giáo lý ấy không phải lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này
mà Ba Pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ kinh tạng Nam truyền đến
kinh tạng Bắc truyền.
Bốn Pháp Ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết bàn hay vô thường, khổ, vô ngã và Không (Kinh Tăng Nhất A Hàm). Niết bàn là tên
gọi khác của vô ngã[3] và Không cũng là một cách nhìn khác về lý duyên khởi.
Các pháp đều do điều kiện, nhân duyên tạo thành, vì thế chúng vô ngã. Do đó, có
thể xem Ba Pháp Ấn vô thường, khổ và
vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định chính pháp, là
một định thức chuẩn mực để tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp
môn tu tập của Phật giáo.
Một Pháp Ấn cũng là Thật Tướng Ấn tức là lấy thật tướng của
các pháp làm gốc, nên nói nghĩa lý thật tướng của các pháp là ấn tín của hệ
thống tư tưởng Phật giáo Bắc Truyền.
***
Nói tóm lại, dù với bất cứ kinh
điển thuộc truyền thống nào, Nam Truyền cũng như Bắc truyền nếu có sự hiện diện
của vô thường, khổ và vô ngã là xác định tính cách chính
pháp. Nói một cách khác, vô thường, khổ và vô ngã là ba phạm trù dùng để công
nhận những kinh điển nào phù hợp với những lời dạy của đức Phật, phù hợp với sự
thật thì những lời dạy ấy đích thật là của trí tuệ. Do vậy chúng ta không
nên đặt vấn đề ngụy kinh, nghi kinh hay chính kinh. Bất cứ kinh nào có giá trị
nói lên giáo lý vô thường, khổ và vô ngã thì chúng ta xem đó là kinh Phật, và
nên học lấy những tinh túy của nó thay vì đi tìm kiếm xem nguồn gốc của bản
kinh. Hay khi xem một lời kinh hoặc một quyển kinh, chúng ta nên tự mình tìm
hiểu nội dung của kinh, những ý nghĩa ẩn tàng trong đó và dùng trí tuệ của mình
xét nghiệm xem như thế nào mà không nên khẳng định ngay rằng kinh này là sai,
không phải là kinh của Phật, do vì các nhà học giả đã nói như thế. Trước khi
Phật Thích Ca Niết Bàn, Ngài đã căn dặn mọi người rằng hãy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” là
vậy.
[1] Trước Tây Lịch hay trước
công nguyên.
[2] Bộ nhớ hay là thẻ nhớ là nơi
lưu trữ dữ liệu để máy tính thực hiện các tác vụ, được chia thành hai dòng
chính: bộ nhớ tạm thời (RAM, DDR...) và bộ nhớ vĩnh viễn (flash, SSD) không mất
dữ liệu khi tắt điện.
[3] HT. Thích Thiện Siêu, Vô Ngã là Niết Bàn.
http://www.thuvienhoasen.org/ths-vongalanietban.htm.