Phụ lục.
Đường lối thực hành Tham Tổ Sư Thiền
ĐƯỜNG LỐI THỰC HÀNH
THAM TỒ SƯ THIỀN
THÍCH DUY LỰC
Tổ Sư Thiền này là do đường lối
chánh thức của Tổ Sư truyền xuống, gọi là tham thiền. Tham thiền không phải là
ngồi thiền, ngồi thiền cũng không phải là tham thiền. Nhiều người lầm tưởng
rằng ngồi thiền tức tham thiền, kỳ thực tham thiền không cần ngồi cũng được.
Như Tổ dạy: Phải khi lao động mà tập tham được mới tốt, nếu chỉ thích ngồi yên
một chỗ vắng lặng mà tập tham thì khó hy vọng kiến tánh.
Lục Tổ nói: "Đạo do tâm ngộ, bất tại tọa". Phẩm
Tọa thiền trong Pháp Bảo Đàn Kinh nói đến Tọa thiền là tâm tọa (chứ không phải
thân tọa) nghĩa là: ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi
gọi là tọa, trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Vậy thế nào là tham
thiền? Chữ tham tức là Nghi, Nghi tức là không hiểu, một việc gì đã hiểu rồi
thì hết nghi, hết nghi tức là không có tham, cho nên tham thiền rất chú trọng
cái nghi gọi là nghi tình. Muốn khởi lên cái nghi tình phải nhờ câu thoại đầu,
gọi là tham thoại đầu. Thế nào là thoại đầu? Theo Ngài Hư Vân giải thích rằng
khi muốn nói một câu thoại thì phải khởi niệm rồi mới nói được, lúc chưa khởi
niệm muốn nói gọi là thoại đầu, nếu đã khởi niệm muốn nói, mặc dù chưa nói ra
cũng đã là thoại vĩ rồi. Hiện nay bắt đầu tham thiền thì chưa đến thoại đầu
nhưng cũng không phải ở thoại vĩ, là từ thoại vĩ tiến đến thoại đầu, đang đi ở
giữa đường một ngày kia sẽ tiến tới thoại đầu. Lúc ấy câu thoại tự mất, nếu còn
câu thoại thì chưa đến thoại đầu. Ngài Hư Vân có thí dụ rằng: "Thoại đầu
là cây gậy, nghi tình là đi, như người cụt chân muốn đi phải nhờ cây gậy, cũng
như muốn khởi nghi tình phải nhờ câu thoại đầu vậy.
Nói tham thoại đầu, thoại đầu
thì nhiều lắm, muôn muôn ngàn ngàn kể không hết, bây giờ tôi chỉ đề ra 5 câu
thoại đầu để cho người tham thiền tự mình lựa một câu, câu nào tự mình cảm thấy
rất khó hiểu, hiểu không nổi thì câu đó thích hợp cho mình tham. Chỉ được lựa
một câu không cho lựa hai câu và sau khi quyết định câu nào rồi không cho đổi
qua đổi lại, thẳng tới mà tham đến kiến tánh mới thôi.
Năm câu thoại đầu là:
Khi chưa có trời đất, ta là cái gì?
Muôn pháp về một, một về chổ nào?
Trước khi cha mẹ chưa sinh, mặt mũi bổn lai của ta
ra sao?
Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu?
Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là
cái gì?
Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi
thì phải có đáp, cũng như câu: "Khi chưa có Trời đất, ta là cái gì?"
hỏi thầm trong bụng cảm thấy không hiểu thì đáp không ra, đáp không ra thì càng
thấy thắc mắc, chính cái thắc mắc đó gọi là nghi tình. Hỏi câu thứ nhất đáp
không ra thì tiếp tục hỏi câu thứ nhì, đáp không ra, tiếp tục hỏi câu thứ ba,
cứ tiếp tục hỏi mãi, ngày đêm không ngừng, bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, đang làm
công việc tay chân hay bằng trí óc, đi bộ, đi xe, đang ăn cơm, đang đi cầu,
đang ngủ mê, đều phải tiếp tục hỏi tới hoài, không giây phút gián đoạn. Người
sơ tham thì hay quên cũng như một ngày 24 tiếng đồng hồ, gián đoạn 23 tiếng,
tập tham dần dần thì sự gián đoạn giảm bớt còn 22 tiếng, rồi tiếp tục còn 21
tiếng, 20 tiếng v.v... dần dần đến công phu miên mật tức là ngày đêm 24 giờ
không giây phút gián đoạn. Khi công phu được thành khối cũng gọi là đến thoại
đầu, cũng gọi là đến đầu sào trăm thước. Từ đầu sào trăm thước tiến thêm một
bước nữa là kiến tánh, đạt đến chỗ tự do tự tại, được giải thoát vĩnh viễn tất
cả khổ.
Người tham Tổ Sư Thiền phải chú
ý những điều sau đây:
1 - PHÁ NGÃ CHẤP
Theo Phật pháp, bất cứ tiểu
thừa, trung thừa, đại thừa, cho đến tối thượng thừa, chẳng có thừa nào là không
phá ngã chấp cả. Nếu không phá ngã chấp thì không được giải thoát cái khổ sinh
tử, không được ra khỏi sinh tử luân hồi. Vậy tham thiền phải phá ngã chấp bằng
cách nào? Là bằng chín chữ: "Vô sở đắc, vô sở cầu, vô sở sợ" đó là
cái căn bản để thực hành phá ngã chấp. Nếu có sở đắc là còn chấp ngã, có sở cầu
là còn chấp ngã, có sở sợ là còn chấp ngã.
2 - PHÂN BIỆT HỔ NGHI VÀ CHÁNH NGHI
Tham thiền là chánh nghi. Chánh
nghi là chỉ cho tâm nghi, chứ không cho tâm đi tìm hiểu so sánh, để nuôi cái
nghi tình cho thật mạnh. Khi nghi tình mạnh tới cùng tột, thình lình bùng nổ
gọi là kiến tánh. Kiến tánh là giác ngộ, là biết được chính mình mới làm chủ
được mình. Tự làm chủ được mới tự do tự tại được. Tự do tự tại là vĩnh viễn
giải thoát tất cả khổ, cho nên gọi là kiến tánh thành Phật. Còn hồ nghi là lấy
tâm đi tìm hiểu, hoặc giải thích câu thoại đầu cho ra đáp án, đó không phải là
tham thiền, hồ nghi chỉ có thể được giải ngộ, chứ không được chứng ngộ, cũng
như nhà khoa học Newton thấy trái táo từ trên cây rơi xuống mà sinh ra nghi
vấn: Tại sao trái táo rớt xuống đất mà không bay lên trời? Từ đó, ông lấy tâm
đi nghiên cứu tìm hiểu, cuối cùng ngộ được: Lực hấp dẫn vạn vật. Đó là hồ nghi.
Hồ nghi chỉ có thể phát minh được đồ dùng của thế gian, chỉ có giá trị đối với thế
gian vì không ngộ được chính mình nên không làm chủ mình được, không đạt đến tự
do tự tại được.
3- CHẲNG CHO KHỞI BIỆT NIỆM
Ngoài nghi tình ra không cho
khởi niệm khác, không cho đè nén vọng tưởng, không cho buông bỏ vọng tưởng,
cũng không cho trừ vọng tưởng, vọng tưởng khởi lên bao nhiêu cũng mặc kệ không
cần biết tới có vọng tưởng hay không có vọng tưởng, vì nghi tình chính là cây
chổi automatic, không cần sự tác ý, tự nó quét sạch tất cả. Có vọng tưởng cũng
quét, không có vọng tưởng nó cũng quét. Nếu nghi tình được miên mật thì tất
nhiên vọng tưởng không có kẽ hở mà nổi lên, hễ có khởi lên một niệm khác tức là
đã có kẽ hở rồi.
4 - NHÂN QUẢ, NGHI NGỘ
Phải biết nghi là nhân, ngộ là
quả. Không có nhân thì không có quả cho nên bất nghi bất ngộ, nhân nhỏ, quả
nhỏ, cho nên tiểu nghi, tiểu ngộ, nhân lớn, quả lớn, cho nên đại nghi, đại ngộ.
Nếu tham thiền lúc nghi tình nặng, ảnh hưởng đến nhức đầu, tức ngực, khó thở,
đó là đại nghi. Khi đó, thì nhức nhiều chừng nào thì tốt chừng nấy, chớ nên sợ,
đó là tình hình tốt bởi vì đại nghi sẽ được đại ngộ. Nhưng lúc ngồi mà có tình
trạng như vậy thì không được.
Không được thì phải làm sao?
Phải mau mau đứng dậy kiếm công việc làm nhưng vẫn phải tiếp tục tham cứu. Nếu
tham tới cảm thấy thần kinh căng thẳng quá chịu không nổi thì câu thoại đầu
phải đề chậm lại từng chữ một, chậm thật chậm, mỗi chữ kéo dài độ mười giây như
vậy sự căng thẳng thần kinh sẽ dần dần được giải tỏa.
5- CHẲNG PHÂN BIỆT TƯ CÁCH
Tham Tổ Sư Thiền không kể sơ
tham, lão tham, thông minh, dốt nát, ngu si, người già hay trẻ con. Trong Kinh
Pháp Hoa: Long Nữ 8 tuổi được thành Phật. Truyền Đăng Lục (lịch sử thiền tông
Trung Hoa) có một cô họ Trịnh 13 tuổi kiến tánh, một cô họ Tô 15 tuổi được kiến
tánh và nhiều Tổ ngu si dốt nát cũng tham thiền được kiến tánh. Người tham
thiền chỉ cần thống thiết vì việc sinh tử, dũng mãnh tham cứu thì bất cứ người
nào cũng có thể kiến tánh thành Phật, không nên tự khinh khả năng thành Phật
của mình.
6 - THÂM TIN TỰ TÂM
Tham thiền phải tin tự tâm, nếu
chỉ tin pháp môn tham thiền mà không tin tự tâm thì dù tinh tiến đến mức nào
cũng không được kiến tánh, nên Ngài Bác Sơn nói: tin có chánh, tà; tin "tự
tâm tức Phật" là chánh, ngoài tâm chấp có pháp gọi là tà; "tức
Phật" là cần phải tham cứu cho sáng tỏ tự tâm và phải đích thân dẫm đến
tới chỗ chẳng nghi mới gọi là chánh tín, còn như mập mờ, lầm lạc, đoán mò chỉ
nói "tức tâm tức Phật" mà thật không muốn tham cứu rõ tự tâm thì gọi
là tà tín."
7 - PHẢI NGỘ TỰ TÁNH
"Hàn lu trục khối, sư tử
giảo nhân" (Chó Hàn đuổi cục xương, sư tử thì cắn người). Đây là hai câu
thí dụ của Tổ Sư, nghĩa là: Một người quăng cục xương, con chó đuổi theo cục
xương mà cắn còn con sư tử thì không ngó tới cục xương cứ cắn ngay người đó.
Người đó dụ cho tự tánh, cục xương dụ cho lời nói của Tổ, của Phật. Nếu hướng
vào lời nói của Tổ, của Phật mà ngộ là con chó, hướng vào tự tánh mà ngộ là con
sư tử.
Cổ Đức nói: "Tử ư cú
hạ" (chết trong ngữ cú), hướng cử khởi xứ thừa đương (hướng vào chỗ lời
nói mà nhận lấy)", nghĩa là lời nói của Tổ vừa nói ra, vừa nghe hiểu liền
cho đó là ngộ, nhưng sự hiểu ngộ đó còn nằm trong ý thức phân biệt, mặc dù đúng
lý thế gian rất lô-gích, nhưng vì chẳng biết cần phải lìa ý thức mới chứng ngộ
được. Cho nên bị Tổ chê là Hàn lu (loại chó mực rất thông minh ở nước Hàn).
8 - KHÔNG LỌT VÔ KÝ
Tham thiền nên tránh lọt vào
"Vô ký-không". Pháp môn khác chỉ cầu được dứt niệm, nhưng tham thiền
trái lại không cho dứt niệm tức là nghi tình phải luôn luôn tiếp tục, không cho
gián đoạn. Nếu không có nghi tình cũng không có vọng tưởng thì lọt vào Vô
ký-không là một thứ thiền bệnh, Tổ Sư gọi là "ngâm nước chết", mặc dù
lúc ấy cảm thấy được thanh thanh tịnh tịnh, trong mình cảm thấy nhẹ nhàng nhưng
chấp lấy cái đó thì vĩnh viễn không được kiến tánh, chẳng thà có nghi tình, có
vọng tưởng còn tốt hơn. Vậy tham thiền nếu chưa đến thoại đầu chớ nên bỏ câu
thoại. Có người bỏ câu thoại vẫn còn nghi tình cho là tốt, thực thì không đúng
vì có thể bị gián đoạn một khoảng thời gian lâu mà tự mình không hay, lại cũng
dễ bị lọt vào vô Ký không nữa.
9 - HÀNH KHỞI GIẢI TUYỆT
Theo giáo-môn thông thường, sự
tu hành phải trải qua bốn giai đoạn là: tín, giải, hành, chứng. Ban đầu do tin
rồi đi tìm hiểu (giải), theo sự hiểu mà thực hành, vừa thực hành vừa tìm hiểu
thêm, vừa hiểu thêm vừa thực hành thêm từng bậc tiến lên chứng từ thập tín,
thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa cho đến đẳng giác, diệu giác. Đó
là cách tu thông thường. Còn Tổ Sư thiền thì không phải vậy. Trước tiên cũng
phải có tin, có hiểu, nhưng khi bắt đầu thực hành thì không được tìm hiểu nữa.
Thiền môn gọi là "Hành khởi giải tuyệt" tức là đã bắt đầu tham thiền
rồi thì sự tìm hiểu kiến giải phải chấm dứt.
Cho nên tham thiền không cho
hiểu thiền, hiểu đạo. Tại sao vậy? Vì đang tham thiền là đã có thiền, có đạo
rồi. Nếu đi tìm hiểu thiền hiểu đạo nữa thì cũng như mình đã có một cái đầu rồi
còn sinh thêm một cái đầu thứ hai nữa. Tổ Sư gọi: "Đầu thượng an đầu"
(trên đầu thêm đầu) thì cái đầu thứ hai, không những không có ích cho cái đầu
bổn lai, lại còn làm chướng ngại khổ sở cho cái đầu bổn lai nên phải mời Bác sĩ
cắt bỏ mới được khôi phục sức khỏe lại.
Vậy hiểu thiền hiểu đạo còn
không cho huống là đi tìm hiểu cái khác nữa. Phải biết rằng ham tìm hiểu rất
chướng ngại cho sự chứng ngộ. Thế nên "Hành khởi giải tuyệt" là vậy.
10 - CHÚ TRỌNG THỰC HÀNH
Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực
hành không cần lý luận, nhưng khi đang thực hành sẽ tùy theo căn cơ trình độ
khác biệt, tình chấp nặng nhẹ, kiến giải cao thấp và sự ham thích bất đồng của
mỗi người mà sinh ra muôn ngàn lối tẻ sai biệt, cho nên quyển sách này chỉ được
nêu ra những điều thực hành chung, còn nhiều chi tiết vi tế không thể kể hết ở
trong này, phải tùy bệnh mà cho thuốc, vì thế mặc dù cách tham thoại đầu rất dễ
nhưng cũng phải có người lão tham hướng dẫn mới được. Nếu tự làm tài khôn mà
không đi đúng với tôn chỉ chính xác tủa Tổ Sư Thiền thì sẽ có thể trở thành phỉ
báng Phật pháp, tạo tội địa ngục mà tự mình không biết, xin người học thiền để
ý cho.