Chương
05. Cư sĩ với vấn đề kinh doanh làm giàu
Đạo Phật
chủ trương thiểu dục tri túc[1], không đặt nặng vấn đề của cải vật chất. Nhưng
nhu cầu vật chất lại là một trong những mục đích đấu tranh của con người sống
trong xã hội ngày nay, nhất là trong thế giới tư bản, trong cơ chế thị trường.
Một trong những mâu thuẫn căn bản của thời đại mới là hễ đáp ứng được nhu cầu
vật chất này lại nảy sanh ra nhu cầu vật chất mới khác và lúc nào cũng phải đầu
tắt mặt tối với việc làm giàu nhằm thỏa mãn những nhu cầu đó. Trong một môi
trường như vậy, người cư sĩ sẽ có một vị trí như thế nào và phải ứng xử làm
sao?
Trước khi đi vào chủ đề chính,
thiết tưởng cũng cần phải xác định giới hạn cũng như đối tượng của vấn đề. Đạo
Phật trên danh nghĩa thiết yếu là đạo giác ngộ, giải thoát con người ra khỏi
khổ đau, đem lại một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người và nếu muốn con
người có thể tiến xa hơn là gỉai thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Mục tiêu tối hậu là giác ngộ
giải thoát hoàn toàn, nhưng giáo lý nhà Phật đã chia con đường lớn ra thành
từng con đường nhỏ hay từng giai đoạn để mọi người, tùy theo hoàn cảnh, cơ
duyên, đều có thể tự mình đạt được từng bước giải thoát trong đời sống hằng
ngày.
Nhà Phật theo con đường trung
đạo. Mỗi Phật tử đều có thể áp dụng giáo lý nhà Phật vào một hoặc cả hai giai
đoạn tu tập, giai đoạn thứ nhất là ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày như
là không làm các điều ác, làm các điều lành, giữ năm giới cấm và mười điều
thiện nhằm mục đích đem lại niềm hạnh phúc, an lạc và giải thoát cho chính
mình, cho gia đình và cho xã hội và giai đoạn thứ hai là dốc toàn tâm, toàn lực
tu tập để giác ngộ giải thoát triệt để. Giai đọan này dành cho những người có
ước muốn giác ngộ giải thoát hoàn toàn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, thì phải
nỗ lực giữ nhiều giới cấm hơn và tự thanh tịnh hóa tâm ý, chấm dứt dòng suy
nghĩ miên man che mờ Chân Tâm, để Chân Tâm được hiển lộ. Những người đi theo
giai đoạn thứ hai này thường là những người tự nguyện từ bỏ nếp sống gia đình,
sống đời sống độc thân thanh đạm, không tài sản, thành phần này được gọi là giới
tu sĩ.
Ngoài hàng tu sĩ xuất gia còn có
hàng cư sĩ tu tại gia, thành phần này chiếm đại đa số, là thành phần căn bản
của gia đình, xã hội và là nền tảng của đạo Phật. Do vì người Cư sĩ có vợ chồng
con cái, nên việc tu hành thường chỉ giới hạn ở giai đoạn thứ nhất, cốt yếu đạt
được đời sống ấm no, hạnh phúc, an lành cho bản thân, gia đình và giúp ổn định
cho cộng đồng xã hội. Cho nên ước muốn trở nên người giàu có và có địa vị trong
xã hội, nhằm xoá tan hay làm vơi đi nỗi khổ đau do đời sống vật chất thiếu thốn
đem lại, để từ đó thiết lập một đời sống tâm linh an lạc, là một tâm lý thường tình.
Theo các nhà xã hội học, nhu cầu
căn bản của con người cần phải có để tồn tại là ăn, uống, ngủ nghỉ, sự an ninh
và sự quan tâm của người khác. Đây là nhu cầu thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại
của con người, nên Phật giáo thừa nhận nhu cầu căn bản này. Phật giáo cho rằng
chỉ khi nào nhu cầu căn bản này được đáp ứng thì con người mới có thể tu tập và
tiến cao hơn trong thế giới tâm linh được.
Ngoài nhu cầu căn bản ra, con
người còn có một ham muốn khác đó là tham dục. Tham dục có thể là hiện tượng
báo trước của tội ác vì nó vượt quá nhu cầu căn bản của con người, là ham muốn
quá mức nên không thể đạt được trọn vẹn. Vì để thoả mãn lòng tham dục, nên con
người đã bất chấp mọi hành vi thủ đoạn, nhằm đạt được lòng tham dục của mình,
nhưng lòng tham dục lại không bờ bến. Tệ nạn tham nhũng và tội ác xã hội một
mặt đến từ đói khổ, mặt khác cũng xuất phát từ lòng tham dục của con người. Do
vậy Phật giáo không chấp nhận cả hai thứ đói nghèo và tham dục.
Thời Phật tại thế Ngài rất chú
trọng đến đời sống gia đình, quan hệ vợ chồng cùng việc nuôi dạy con cái. Có
nhiều kinh điển đề cập đến việc kết hôn, mang thai, sanh con và cuộc sống gia
đình... Sự kiện này cho thấy Phật Giáo không nằm ngoài thế gian, không cách ly
với thế gian. Ngay cả việc làm giàu chân chính đạo Phật cũng không chống lại,
có thể nói như vậy là vì Phật giáo chống lại cái nghèo, từ cái nghèo vật chất
đến cái nghèo tinh thần. Đức Phật đã từng cho rằng nghèo khổ là một tai ương.
Có lần Đức Phật hỏi các đệ tử
“Đối với người đời, nghèo đói có phải là tai ương không?” Đệ tử đáp: “thưa
phải”. Phật lại hỏi “Đã nghèo còn mang thêm nợ thì có phải là tai ương
không?”. Đệ tử đáp “Thưa phải”.Phật lại hỏi: “người đang mắc nợ lại vay thêm nợ
nữa thì có phải là tai ương không?” Đệ tử đáp: “Thưa phải”.Phật nói: “Đến lúc
đó chủ nợ đến đòi nợ, người ấy không trả nổi bị chủ nợ làm nhục thế có phải là
tai ương không?”. Đệ tử đáp: “thưa phải”.
Cho nên, đối với Phật giáo, có
đầy đủ những nhu cầu tối thiểu về vật chất cho đời sống hàng ngày là một điều
cần thiết hơn là nhu cầu tâm linh. Ngày xưa, có một người nông dân bị mất bò đi
tìm suốt ngày vẫn không thấy, khi đi ngang nơi Phật đang thuyết pháp và muốn
được nghe pháp, Phật biết anh ấy suốt ngày chưa được ăn uống gì nên Ngài gọi đệ
tử đem cơm canh cho anh ấy ăn trước rồi sau mới nghe pháp. Điều này chứng minh
rằng Đức Phật biết rất rõ, khi con người đang bị đói khát thì không thể nói đến
vấn đề tâm linh được.
Không những thế sự nghèo khổ
luôn gắn liền với tệ nạn xã hội và tội phạm. Trong kinh Chuyển luân thánh vương Sư tử hống và kinh Cứu-la-đàn-đầu thuộc Kinh Trường Bộ, có ghi rằng nghèo khổ do
thiếu thốn về vật chất và do thiếu thốn về vật chất nên phát sinh ra tệ nạn xã
hội như trộm cắp, giết người, làm mất sự ổn định xã hội. Ðức Phật khuyên nếu
muốn cho con người từ bỏ cái ác tính phạm tội, các tổ chức cộng đồng xã hội cần
phải giúp dân chúng cải thiện tình trạng kinh tế gia đình, như giúp hạt giống
và nông cụ cần thiết cho người làm ruộng, cho các nhà buôn vay tiền không lãi
làm vốn, trả tiền công thích đáng cho các công nhân làm việc. Việc trị tội bằng
hình phạt như ở tù hay tử hình các tội phạm đều không mang lại kết quả tốt.
Do đó, Ðức Phật thường khuyên
nhủ hàng cư sĩ nên cố gắng làm việc bằng chính công sức của mình để cải thiện
tình trạng kinh tế gia đình, làm cho gia đình sung túc, giàu có của cải. Ðiều
ấy không có nghĩa là Ðức Phật chấp nhận cho mọi người tích trữ của cải với lòng
tham dục, vì đó là trái với giáo lý căn bản của Ngài. Ngài cũng không tán đồng
bất cứ phương tiện làm ăn sinh sống nào. Có vài nghề sản xuất và mua bán khí
giới có tính cách tàn hoại sự sống bị Ngài cấm chỉ, xem như là những phương
tiện sinh sống không chân chính.
Ngoài ra, Ngài cũng nói tới bốn
điều hạnh phúc hay bốn niềm vui của người học Phật tại gia: (1) Được thụ hưởng
một nền kinh tế vững chắc hay một tài sản dồi dào do tự mình tạo ra một cách
công minh và hợp pháp, (2) Được tự do chi tiêu cho mình, cho gia đình, cho thân
bằng quyến thuộc của mình và cho những việc làm phước thiện, (3) Không có nợ
nần, và (4) Sống một cuộc đời ngay thẳng, trong sạch, không tạo các việc ác
bằng tư tưởng, lời nói và hành động[2].
Để đạt được bốn niềm vui hạnh
phúc này Ngài đã chỉ dạy bốn điều kiện cho người cư sĩ tu tại nhà là: (1) chăm
chỉ, cố gắng đạt tới một nghề nghiệp tinh chuyên, (2) phải bảo vệ tài sản kiếm
được một cách chính đáng bằng mồ hôi, nước mắt, (3) kết bạn với những người đạo
đức, học rộng biết nhiều, thông minh và phóng khoáng, để giúp mình tiến bộ trên
con đường học chính đạo, xa lánh ác nghiệp và (4) tiêu tiền trong khả năng có
và dành một phần cho những việc từ thiện xã hội, không hà tiện mà cũng không
hoang phí[3].
Kế đó Ngài nêu ra bốn đức tính
cần có để đem lại hạnh phúc đích thực cho tương lai của con người: (1) phải có
lòng tin vững chắc vào những giá trị đạo đức, tinh thần và trí tuệ, (2) không
sát sinh, không trộm cắp, không lường gạt, không tà dâm, không nói dối và không
uống các chất say, (3) thực hành hạnh bố thí, mở lòng quảng đại và không
tham luyến, và (4) phát triển trí tuệ để tận diệt nguồn gốc của sự khổ hầu tiến
đến đạo quả Niết Bàn[4].
Như vậy chúng ta thấy rằng giáo
lý của Đức Phật nhắm vào đơn vị nền tảng của xã hội là gia đình để tạo ra sự ổn
định kinh tế và từ đó đưa đến sự ổn định cộng đồng xã hội và phát triển kinh tế
quốc gia mang lại ấm no hạnh phúc cho dân chúng. Vì thế, một người cư sĩ Phật
giáo chân chính vẫn có thể làm giàu trong cương vị một nhà buôn bán nhỏ, một
nhà thương mại hạng trung hay một nhà kinh doanh lớn nếu chúng ta biết ứng dụng
những lời dạy của Đức Phật nói trên vào công việc kinh doanh, từ việc sáng tạo
sản phẩm đến việc đưa sản phẩm tới người tiêu dùng đều với mục đích trong sáng,
không xuất phát chỉ vì lòng tham dục cho riêng cá nhân mình mà phải vì người
khác, vì lợi ích chung của cộng đồng xã hội và môi trường sống chung quanh.
Không gian tham, không đầu cơ tích trữ hàng hóa, không bóc lột nhân công, không
tranh đoạt sự sống của kẻ khác và không cạnh tranh thương mại bất chính là
những điều cần thiết cho người cư sĩ Phật giáo chân chính trên thương trường.
Có được như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ có một thứ hạnh phúc tinh thần lớn
lao mà không một thứ hạnh phúc nào có thể so sánh được vì chúng ta đem lại phúc
lợi cho số đông, cho cộng đồng xã hội và cho dân tộc đất nước.
[1] Thiểu Dục là muốn ít, Tri
túc là biết đủ. Ðạo Phật dạy "Thiểu dục" và "Tri túc" cốt
yếu ngăn ngừa con đường trụy lạc, chận đứng lòng tham lam độc ác không bờ bến
của chúng sinh, đang sống trong cõi đời vật dục, chứ không phải chủ trương ngăn
chận sự tiến triển của con người trên đường lợi người, lợi vật, ích nước, ích
dân.
[2] HT. Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh III, 77 - 78 &
HT. Thích Thanh Từ, Kinh Tăng Nhất A Hàm,
tr. 232-233 Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1997
[3] HT. Thích Thanh Từ, Kinh Tăng Nhất A Hàm, từ tr. 786.Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
1997 http://www.thuvienhoasen.org/kinhtangnhataham-00.htm
[4] HT. Thích Thanh Từ, Kinh Tăng Nhất A Hàm, từ trang 786.Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
1997 http://www.thuvienhoasen.org/kinhtangnhataham-00.htm.