Chương
09. Cư sĩ với việc đốt vàng mã
Theo sử
sách của người Trung Hoa, tục đốt vàng mã bắt đầu từ thời nhà Hán. Nguyên
do vì nhà vua muốn thực hành lời dạy của Đức Khổng Tử: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”,
nghĩa là thờ người chết như thờ người sống, thờ người mất như thờ người còn và
cho rằng người mất sống nơi cõi âm vẫn có những nhu cầu như kẻ còn sống như
tiền bạc, nhà cửa, thực phẩm v.v... Nên khi nhà vua băng hà, phải bỏ tiền bạc
thật vào trong áo quan để vua tiêu dùng.
Sau đó quan bắt chước vua và rồi
dân bắt chước quan. Ai cũng chôn tiền thật theo người chết. Bọn trộm cướp biết
vậy nên đào trộm mồ những người giàu có, như mộ vua Hán Văn Đế bị quân trộm
khai quật lấy hết vàng bạc châu báu. Về sau từ quan đến dân thấy việc chôn
tiền bạc thật quá tốn kém nên mới nảy sinh ra dùng giấy cắt ra làm tiền giả,
vàng giả để thay thế. Dần dà người dân bắt chước và trở thành tập tục. Đến năm Khai Nguyên thứ 26 (738 DL), đời Đường Huyền Tông, nhà vua ra sắc dụ cho
phép dùng tiền giấy thay cho tiền thật trong việc cúng tế cầu siêu do quan tế
tự Vương Du phụ trách. Việc sử dụng vàng mã chính thức bắt đầu từ
đấy.
Không bao lâu, dân chúng chán bỏ
vì thấy việc đốt vàng mã không hiệu nghiệm, họ đốt đủ thứ cần dùng để người quá
cố tiêu dùng mà không thấy được báo mộng hay có một hiện tượng gì chứng tỏ
người chết được hưởng dụng, nhất là đối với những người nghèo không đủ tiền mua
sắm đồ mã nên họ bảo nhau không đốt nữa, thế là nghề làm đồ mã bị ế ẩm. Sách Trực Ngôn Cảnh Giác của Trung Hoa kể
lại rằng Vương Luân là dòng dõi của Vương Du, vì không muốn nghề nghiệp gia
truyền làm vàng mã bị mai một, nên cố gắng hết sức để chấn hưng nghề làm đồ mã,
bèn lập mưu với người bạn thân, lên kế hoạch bí mật chết giả, bằng cách để
người bạn thân đó giả vờ đau ốm cho mọi người biết, khoảng vài ngày sau Vương
Luân loan tin người bạn thân đã qua đời, sau đó khâm liệm bỏ vào quan tài chờ ngày
an táng. Nhưng sự thật thì người bạn của Vương Luân vẫn còn sống, tuy ở trong
quan tài nhưng vẫn có lỗ trống ở dưới đáy để thở và đưa thức ăn vào. Đến ngày
đưa đám tang, trong khi lễ nhạc linh đình, phúng điếu rộn rịp, Vương Luân đem
giấy tiền vàng mã và những đồ dùng bằng giấy như nhà cửa, áo quần và hình nhân
thế mạng, đích thân làm lễ cúng tế để cầu nguyện cho người bạn thân. Sau
đó ông ta đốt hết giấy tiền vàng mã và hình nhân thế mạng.
Khi đốt xong thì quan tài tự
nhiên rung động, ai nấy đều mục kích rõ ràng, vội cùng nhau mở nắp quan tài ra.
Người bạn thân của Vương Luân quả nhiên sống lại, đến trước mặt Vương Luân phủ
phục xuống đất cảm tạ và thuật lại cho mọi người nghe rằng chư vị thần dưới âm
đã nhận được vàng mã và hình nhân thế mạng nên thả hồn ông ta trở về cõi trần,
nên ông ta mới được sống lại.
Mọi người đều tin là thật và tin
tức được loan truyền rộng rãi trong dân gian, nên đồ mã của Vương Luân sau đó
lại được hưng thịnh như xưa. Nhờ thế các nhà buôn đồ mã lại làm giàu một cách
nhanh chóng và phổ biến sang các nước chư hầu để tiêu thụ, trong đó có Việt Nam xưa. Sau
này do sự cạnh tranh nghề nghiệp, nên người bạn thân đã tiết lộ mưu kế gian xảo
của Vương Luân và vì thế ngày nay chúng ta mới biết lai lịch việc này.
Tục lệ đốt vàng mã này ảnh hưởng
sâu đậm vào nước ta, từ vua chúa đến thứ dân. Vụ đốt vàng mã lớn nhất Việt Nam
vào đầu thế kỷ 20 là trong đám tang của Vua Khải Định, băng hà vào ngày 25
tháng 11, năm 1925, triều đình Huế đã làm nguyên cả ngôi điện Kiến Trung bằng
giấy thật lớn và nhiều loại đồ dùng của vua như ngự liễn, long xa, tàn kiệu,
v.v... để đốt theo vua.
Ngày nay, dưới ánh sáng văn
minh, ai cũng biết người chết không thể nào tiêu xài số tiền vàng và các thứ
cần dùng chôn theo ấy. Như có người ở Hà Nội cúng người chết cả máy điện thoại
Nokia cầm tay bằng giấy, Honda Dream bằng giấy và máy vi tính bằng giấy nữa.
Khi còn sống không hiểu người chết ấy có biết sử dụng máy vi tính, điện thoại
cầm tay hay xe Honda không? Xin kính gửi tới quý vị đoạn phóng sự viết vào
thời gian ngày Vu Lan vừa qua tại Hà Nội:
“Tại phố Hàng Mã, điểm
"phân phối" hàng mã cho những người bán rong trên các đường phố luôn
đông nghịt người mua sắm, bộ cúng thần linh rẻ nhất cũng 15.000 đồng, cúng
chúng sinh giá tương tự. Chúng tôi chen chân hỏi mua đồ cúng với giá "bình
dân" đã không được các chủ hàng bán. Tôi chứng kiến một phụ nữ trung niên
cùng cô con gái đến mua nhà lầu, xe hơi, điện thoại di động, tivi, xe máy, quần
áo, tiền dollars Mỹ. Họ còn mua thêm một cô gái bằng giấy như búp bê, mang giày
cao gót, mặc váy ngắn, áo lửng. Khi bà mẹ cầm "cô gái" trong tay thì
cô con gái cầm ngay chiếc kéo nhỏ đâm lia lịa vào mặt hình nhân thế mạng. Giải
thích cho những người hiếu kỳ xung quanh về việc làm kỳ quặc của cô con gái,
người phụ nữ trung niên nói: "Bố cháu làm tổng giám đốc, nay xuống dưới ấy
cũng phải gửi cho ông ấy cô thư ký, nhưng phải làm cho nó xấu xí để khỏi trở
thành bồ của bố cháu". (Hết lời trích)
Chúng tôi không hề thấy có việc
đốt vàng mã cúng tế người chết được ghi trong tam tạng kinh điển của nhà Phật.
Đạo Phật hoàn toàn bác bỏ tục lệ mê tín này. Quan niệm sống chết đối với
Phật Giáo chỉ là hai mắt xích trong một chuỗi sinh tử dài vô tận, từ vô thủy,
cho tới ngày giải thoát tối hậu, con người đạt tới cảnh giới bất tử. Do đó,
Phật giáo không có khái niệm về một nơi chốn dành riêng cho những người đã
chết, mà dân gian thường hay gọi là cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những
từ ngữ của tín ngưỡng dân gian.
Hoà Thượng Thích Thánh Nghiêm,
trong một bài giảng Phật Pháp, nói rằng: “Rất
đáng tiếc là hiện nay, đa số tăng ni cũng không hiểu đạo lý ấy, thậm chí Phật
tử ở Trung Hoa lục địa sang Đài Loan còn phát minh ra loại tiền giấy đặc biệt
gọi là "tiền giấy vãng sinh", tức là trên một tờ giấy màu vàng, dùng
mực đỏ in bài chú vãng sinh bằng chữ Phạn. Thực ra, công dụng tụng chú và tác
dụng đốt tiền giấy là hai chuyện căn bản khác nhau…” Hơn nữa, các tăng ni tụng
kinh, lễ sám, cầu đảo v.v…đều có viết sớ. Đọc sớ xong rồi đốt sớ đi. Đó là bắt
chước đạo gia đọc sớ cho quỷ thần nghe, đó là mê tín, hoàn toàn không có căn cứ
gì trong giáo lý đạo Phật cả. Trong mọi việc, Phật giáo đều chủ trương lấy tâm
thành kính để có cảm ứng. Đã đạt tới chỗ tâm thành và cảm ứng rồi, là có linh
nghiệm, chứ không cần phải đốt lá sớ.” (Hết lời trích)
Cho rằng việc đốt vàng mã làm
người sống cảm thấy trong lòng thanh thản hơn, an lạc hơn, thì chỉ là một cách
nói, một cách đánh lừa tâm thức, nếu có chăng chỉ là an lạc tạm thời như người
dùng thuốc phiện. Muốn tâm thảnh thơi an lạc, không có gì hay hơn là trong cuộc
sống hàng ngày chúng ta thực hiện lời Phật dạy: Không làm điều ác. Siêng
làm điều lành. Tự thanh tịnh tâm ý.
Còn
chuyện hoang đường như đốt vàng mã, thì ngoài việc đã làm tổn hại tài nguyên,
còn mâu thuẫn cả về mặt tâm tư. Trong khi chúng ta cầu nguyện cho người thân quá
vãng được tái sinh vào cõi an lành, như sanh cõi trời hay cõi người hay về cảnh
giới Tây phương cực lạc hay một cảnh giới thanh tịnh nào đó mà lại đi đốt giấy
tiền vàng mã và đồ dùng bằng giấy xuống âm phủ cho người thân tiêu dùng trong
các lễ tang, lễ giỗ, thì như vậy có phải chúng ta cầu cho người thân ở mãi cảnh
giới âm u tối tăm đó để xài tiền ma, đồ dùng ma hay sao. Thậm chí có người, khi
đốt xong còn lo lắng không biết người thân có nhận được không? …