Chương
06. Cư sĩ với vấn đề hôn nhân khác tôn giáo
Cho đến
nay, vấn đề hôn nhân khác tôn giáo vẫn còn tồn tại tại Việt Nam và một số
quốc gia Á Châu khác. Nó đã làm cho không ít những cặp trai gái yêu nhau phải
đau khổ rời xa nhau do sự khác biệt niềm tin tôn giáo này.
Trong dịp viếng thăm Toà Giám
Mục Phát Diệm[1], nhân chuyến về thăm Việt Nam vào tháng 4 năm 2006,
(30/04/2007 lúc 9 giờ sáng) Thiền
sư Thích Nhất Hạnh đã có cuộc trao đổi về vấn đề này với Đức cha Phạm Ngọc
Khuê, Giám mục sở tại cùng với một số đông tín đồ Ki Tô Giáo.
Thiền sư Nhất Hạnh cho rằng: “một người có thể rất hạnh phúc khi có hai gốc rễ,
một gốc rễ Cơ đốc giáo và một gốc rễ Phật Giáo. Hai cái đó không nhất thiết
phải loại trừ nhau. Tại vì mình hẹp hòi cho nên mình mới thấy hai cái khác nhau
chống đối nhau. Nhưng nếu mình vượt lên, thấy được hai truyền thống có thể bổ
túc cho nhau thì mình sẻ có một thái độ cởi mở hơn”. Và Thầy đã đề nghị: “khi
hai thanh niên yêu nhau, một người thuộc về Cơ đốc giáo, một người thuộc về
Phật Giáo thì cả hai gia đình nên cho họ cưới nhau với điều kiện hai bên công
nhận truyền thống của người bên kia và nếu người con trai là Cơ Đốc Giáo và
người con gái là Phật Giáo thì người con gái phải học thêm Cơ Đốc Giáo và người
con trai phải học thêm Phật Giáo. Và đến ngày chủ nhật thì hai người cùng đi
nhà thờ, đến ngày mồng một và ngày rằm thì hai người cùng đi Chùa”.
(hết lời trích).
Cha Phạm Ngọc Khuê, Tòa Giám mục
Phát Diệm cho biết: “Giáo hội không bao
giờ ngăn chặn hai người nam nữ yêu thương và tiến tới hôn nhân với nhau, điều
đó là chắc chắn thuộc về giáo luật, không ai có quyền ngăn cản tình yêu của họ,
vì đó là tuyệt đối… Tuy nhiên khi hai người quyết định yêu thương nhau thì đức
tin của người tín đồ Ki Tô Giáo cũng như Phật giáo phải được tôn trọng bởi sự
tự do của họ… Và cái việc họ được chịu phép rửa tội là hoàn toàn tự do. Cho nên
giáo hội chỉ nói một điều này: Khi tiến tới hôn nhân thì hai người phải hứa là
tôn trọng quyền lợi của nhau và niềm tin của mỗi người, và không được vi phạm.
Vì vậy về phía tín đồ tôn giáo khác phải cam đoan, có thể nói là tuyên thệ tôn
trọng niềm tin vì đó là lĩnh vực thiêng liêng và tự do tôn giáo, không ai được
can thiệp. Nếu họ giữ được như thế thì cuộc hôn phối đó được tốt đẹp và thành
sự trước mặt Chúa và trước luật pháp”. (hết lời trích)
Tuy nhiên, trong thực tế thì
không luôn luôn được xảy ra như vậy, nhất là hoàn cảnh của Việt Nam do chế độ
phong kiến còn rơi rớt, “người nam có quyền hơn người phụ nữ”. Chính vì vậy,
Cha nói tiếp: “Giáo hội đặt ra điều kiện
này: nếu một người tín đồ tôn giáo khác, lấy người Công giáo, rồi sau đó người
Phật tử, hay là người thờ ông bà không giữ lời tuyên thệ trung thành thì người
tín hữu Công giáo có thể trình lên thẩm quyền nguồn Thánh tháo cái hôn phối mà
người ta đã cam kết…”. (hết lời trích)
Và cuối buổi gặp gỡ Thầy Nhất
Hạnh đã đề nghị thêm là: “hai bên giáo
hội Công giáo và Phật giáo phải có những văn bản rõ rệt về vấn đề hôn nhân dị
giáo này. Nếu tôi là pháp chủ Phật giáo Việt Nam thì tôi sẽ cho phép những
người con trai hay con gái Phật giáo lấy những người con trai hay con gái Công
giáo và hai người được học truyền thống của nhau, hai người cùng đi nhà thờ một
lần, hai người cùng đi chùa một lần, hai người cùng được rửa tội một lần và hai
người đều được quy y..”. (hết lời trích).
Qua lời phát biểu của hai vị Tôn
đức Phật giáo và Ki Tô giáo được trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng có một
mẫu số chung trong vấn đề hôn nhân khác tôn giáo là cho tự do kết hôn giữa
người khác Ðạo, nghĩa là Ðạo ai nấy giữ. Tuy nhiên, giải pháp này còn bị giới
hạn bởi thời gian do những đứa con ra đời về sau. Chúng sẽ theo đạo nào. Theo
đạo cha hay theo đạo mẹ hay theo cả hai. Và khi nào bắt đầu cho chúng theo, từ
lúc mới sinh ra hay đợi đến lúc chúng trưởng thành đủ trí khôn mới cho quyền
lựa chọn tôn giáo.
Đối với Phật giáo, đạo Phật là
đạo từ bi, trí tuệ và bình đẳng, không kỳ thị chủng tộc và kỳ thị tôn giáo.
Chuyện hôn nhân của người con trai và người con gái được xem là chuyện hệ trọng
cả đời, là nền tảng của hạnh phúc gia đình. Do đó, người Phật giáo không tạo
ảnh hưởng tôn giáo của mình với những tín đồ tôn giáo khác, không dùng hôn nhân
và việc truyền giống làm phương tiện truyền giáo, đến nỗi hạnh phúc gia đình bị
tan vỡ. Điều kiện chủ yếu của hôn nhân không là tín ngưỡng tôn giáo, mà là tình
đầu ý hợp giữa hai bên. Tuy vậy, người Phật tử phải luôn ý thức rằng hôn nhân,
nếu may mắn chỉ đem lại hạnh phúc cho một đời, còn Phật pháp sẽ dẫn bước và soi
đường cho con người đạt đến hạnh phúc và an vui trong đời này và những đời sau.
[1] http://www.langmai.org/
& http://www.thuvienhoasen.org/phathocvandap-72.htm