Cư sĩ Upasika Kee Nanayon (1901-1978) là một trong những nữ giảng sư nổi tiếng
của Thái Lan ở thế kỷ 20 này. Bà cũng là tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng.
Năm 1945, bà thành lập một trung tâm Thiền nhỏ trong vùng núi ngoại ô Bangkok.
Phật tử từ khắp nơi trên đất nước Thái Lan tụ về đó để nghe bà giảng pháp, cho
đến khi bà mất năm 1978. Bài giảng này được trích dịch từ quyển An Entangled
Knowing: The Teaching of a Thai Buddhist Lay Woman. Bài này do Tỳ kheo
Thanissaro dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh.
Dầu biết tu tập, ta vẫn
thường bị sa ngã vì các cảm thọ của mình. Xét dưới nhiều khía cạnh, các cảm thọ
chỉ là ảo tưởng. Chúng vô thường, không xác thực. Thay vì mang đến cho ta sự tự
tại, chúng chỉ khiến ta thêm căng thẳng - vậy mà ta vẫn bám víu vào chúng. Hãy
suy gẫm cho thấu đáo về sự bám víu vào thọ ấm này của chúng ta. Đôi khi chúng ta
phải trải nghiệm với những khổ đau dường như vượt quá sức chịu đựng của mình.
Khi các cảm giác đau đớn, khó chịu dấy khởi, tâm ta sẽ phản ứng ngay vì nó không
thích sự đau đớn, khó chịu. Nhưng khi sự đau đớn đó biến thành dể chịu thì tâm
chấp nhận, ưa thích điều đó. Vì thế tâm tiếp tục chạy tìm các cảm thọ thoải mái,
dễ chịu, dầu như ta đã biết, cảm thọ luôn biến đổi, gây căng thẳng, và không
thật sự là của ta. Nhưng tâm không biết được điều đó, nó chỉ biết đến sự dễ chịu
của các cảm thọ, và nó đòi hỏi được có thêm. Hãy quán sát thêm xem các cảm thọ
đã dấy khởi trong lòng ta bao ham muốn. Vì ta muốn luôn có được các lạc thọ, nên
lòng ham muốn luôn lôi cuốn, rót bên tai những lời khuyến khích. Nhưng nếu ta có
thể diệt trừ được lòng ham muốn các cảm thọ, thì đó chính là con đường dẫn tới
Niết bàn.
Đức Phật bảo u minh giống như một cơn lũ lớn, có thể cuốn phăng
ta đi. Nhưng Đức Phật đã dạy ta những phương tiện, cách thực hành để vượt qua
được cơn lũ đó, đơn giản là đoạn diệt được lòng ham muốn trong mọi hành động.
Ngay chính trong các cảm thọ, ta cũng cần phải thực tập buông bỏ lòng ham
muốn.
Hãy thực tập ở ngay trong ta. Khi tâm có được cảm giác yên tĩnh,
bình an, đó là một cảm thọ dễ chịu hay sự buông xả. Hãy cố quan sát xem cảm thọ
dễ chịu đó vô thường như thế nào, tại sao nó không phải là ta hay của ta. Khi ta
có thể ngưng lại ngay nơi đó, ngay lúc tâm đang thụ hưởng những gì lạc thọ đang
mang đến, và phát khởi lòng bám víu. Đó là lý do tại sao tâm ta cần luôn tỉnh
thức, quan sát chính nó và những gì xảy ra quanh nó - trong sự chú tâm để nhìn
thấy cảm thọ chỉ là trống không.
Việc ta thích hay không thích một cảm
thọ là một căn bệnh khó khám phá, vì nỗi say mê của ta với các cảm thọ quá mạnh
mẽ. Ngay cả khi tâm ta trống vắng hay bình lặng, chúng ta vẫn tràn ngập các cảm
giác. Những cảm giác thô lậu - mạnh mẽ, căng thẳng do vô minh gây ra - có thể
được nhận biết rõ ràng, nhưng khi tâm bình lặng - sáng suốt, thoải mái, không
dao động, vân vân - chúng ta vẫn bám chặt vào các cảm thọ này. Ta muốn có được
những cảm thọ dễ chịu để tận hưởng chúng. Ngay chính khi ở trong trạng thái chú
tâm mạnh mẽ hay thiền định, ta cũng bám víu vào cảm thọ.
Lòng ham muốn
như có sức hút nam châm để gắn chặt mọi thứ lại với nhau. Sự gắn bó này ta khó
nhận biết vì lòng ham muốn luôn thầm thì bên trong ta “Tôi không ham muốn gì hơn
là những cảm giác dễ chịu”. Nhận ra được điều đó rất quan trọng, vì chính những
con vi trùng của ham muốn đã đưa chúng ta đi mãi trong vòng luân hồi sinh
tử.
Chúng ta gắn bó với cảm thọ như một con khỉ bị dính dầu hắc. Khi tay
này bị dính dầu hắc, khỉ đưa tay kia để gỡ, thì tay đó cũng dính luôn, rồi đến
chân đến miệng nó cũng bị dính. Hãy suy gẫm về những điều sau đây: bất cứ chúng
ta làm gì, cuối cùng ta cũng bị dính vào với cảm thọ và lòng ham muốn, Ta không
thể tháo gỡ chúng ra, không thể tẩy gột. Nếu ta không cẩn thận với lòng ham
muốn, ta cũng giống như con khỉ bị dính dầu hắc. Càng lúc càng bị dính chặt
thêm. Vì thế nếu ta quyết tâm đi theo bước chân của các vị giác ngộ, các bậc
A–la-hán, ta phải chú tâm chánh niệm vào các cảm thọ cho đến lúc ta hoàn toàn
thoát khỏi sự bủa vây của chúng. Ngay với các khổ thọ, ta cũng phải huân tập -
vì nếu ta sợ các khổ thọ, luôn muốn biến nó thành lạc thọ, thì ta càng trở nên
vô minh hơn trước nữa.
Đó là lý do tại sao ta phải can đảm trong việc
đối mặt với các khổ thọ nơi thân tâm. Khi khổ thọ dấy khởi ngùn ngụt như một
căn nhà đầy lửa, ta có thể buông nó không? Ta phải nhìn cả hai mặt của nó như
thế nào? Và khi nó êm ái, dễ chịu, ta phải nhìn xuyên suốt nó như là cả hai (lạc
và khổ) làm sao? Ta phải cố gắng chú tâm vào cả hai mặt đó, quán cho đến khi nào
ta biết phải làm thế nào để buông bỏ chúng. Nếu không ta chẳng biết gì cả, vì
lúc nào ta cũng chỉ muốn cái phần dễ chịu, êm ái của lạc thọ.
Niết bàn là
sự đoạn diệt của lòng ham muốn. Như thế nếu ta cứ muốn bám vào ham muốn mãi, thì
làm sao ta có thể đi được đến đâu? Ta sẽ ở đây trong thế giới này, trong khổ
đau, bứt rứt, vì lòng ham muốn giống như một loại dầu hắc dính chặt. Nếu không
có lòng ham muốn, thì không có thứ gì khác: không có căng thẳng, khổ đau, không
tái sinh. Trái lại, thì nó là mủ cây, là dầu hắc, là màu nhuộm khó có thể tẩy
giặt.
Để mở cánh cửa nhìn được vào nội tâm ta không phải dễ, nhưng cũng
có thể làm được, nếu ta biết cách huấn luyện mình. Nếu ta có chánh niệm để tự
soi xét mình, tự biết mình thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn. Khi đó, dầu lòng ham
muốn có ngụy trang như thế nào, ta cũng sẽ nhận ra nó, biết nó để đoạn diệt,
buông bỏ nó.
Ở giai đoạn bắt đầu ta chỉ cần quan sát sự vật, chỉ cần tỉnh
thức. Nếu nôn nóng, ta sẽ làm hỏng hết mọi việc, khiến ta không còn có thể nhìn
sự vật một cách rõ ràng. Ta chỉ dừng lại ở chỗ nhận biết và không thể đi xa hơn
nữa. Vì lý do đó, ta phải luyện tâm, chú tâm đến độ ta có thể nhận biết sự việc
một cách rõ ràng, coi như chúng là các đối tượng mà ta luôn phải quan sát.