Từ quan điểm tâm lý đến thực hành, sự thiền định dành cho giới cư sĩ có thể được
chia ra làm hai thành phần: nỗ lực thực hành và thực hành trong sinh hoạt hàng
ngày. Nỗ lực thực hành cũng có hai phần: ngồi thiền mỗi ngày hay đôi khi ẩn cư
(retreat).
Ngồi thiền mỗi ngày
Trước hết, chúng ta bàn về việc nỗ lực thực hành thiền mỗi ngày.
Có nghĩa là ngày nào cũng ngồi thiền vào một giờ nhất định. Cần phải cẩn trọng
đừng nên ngồi thiền như một nghi lễ, mà phải luôn tự nhủ vì lý do nào mà ta phải
thực hành thiền. Những ý kiến sau đây là những gợi ý hữu ích.
Nói về
phần vật chất thì nơi thực hành thiền cần phải yên tịnh. Nếu có được một phòng
nhỏ dành cho việc hành thiền thì thật là tốt. Dù sao thực hành thiền một mình
vẫn hay hơn trừ khi những người trong gia đình đều cùng thực tập. Một người cần
chắc chắn rằng tinh thần của chính mình phải trong sạch trong liên hệ với người
chung quanh, như không tham lam, sân hận, vì những độc chất này sẽ cướp mất kết
quả của sự hành thiền.
Muốn yên tịnh, hay nhất là nên dậy sớm để hành
thiền trước khi những người khác thức dậy. Hơn nữa, lúc sáng sớm là lúc tâm trí
thoải mái nhất và cơ thể không bị mệt mỏi. Một thiền sinh hết lòng thực tập sẽ
luôn thực hành thiền vào những giờ nhất định, vì biết rằng chỉ cần đủ giờ ngủ
nghỉ thì thân thể sẽ thoải mái và tỉnh táo hơn.
Sau khi thức dậy và làm
vệ sinh xong thì nên ngồi thiền với bộ đồ sạch và thong thả. Cũng nên có một bàn
thờ nhỏ với những hình ảnh Phật, nhưng cũng không cần thiết lắm. Vài người khác
thì dâng hoa cúng Phật, thắp hương trong sự tỉnh thức cao độ.
Trong
những nước Phật giáo thì thiền sinh thầm niệm "Namo tassa bhagavato arahato
samma-sambuddhassa", (Nam-mô Bậc ứng cúng, chánh biến tri, bậc giác ngộ viên
mãn) khấn nguyện về ba nơi nương tựa và những giới cấm.
Nếu một người
thuộc những lời kinh tán thán Phật, Pháp, Tăng bằng tiếng Pali thì cũng nên niệm
những lời này trong khi hành thiền.
Một điều hữu ích khác quan trọng
cũng không kém là sự suy ngẫm về những lời tụng niệm, vì chúng giúp ta suy ngẫm
thêm về chân lý của pháp (dhamma).
“Được may mắn có thân người, tôi có
hai trách nhiệm trong pháp giới: lợi ích cho chính bản thân và lợi ích cho những
người khác. Những chúng sinh khác dù là người hay không phải người, có hình thể
hay không có hình thể, lớn hay nhỏ, xa hay gần, tôi sẽ đối xử với tất cả chúng
sinh bằng sự dịu dàng, tử tế và mong rằng tất cả đều được an lành. Mong cho tất
cả đều hạnh phúc…!
Tôi sẵn sàng giúp đỡ khi thấy họ đau khổ, và sung
sướng với họ khi thấy họ hạnh phúc. Mong sao cho tôi phát triển lòng bình đẳng,
không phân biệt, có một tâm trí luôn thăng bằng để không bao giờ tức
giận!
Trong lúc lo cho kẻ khác, tôi sẽ không quên sự tiến triển của
chính mình trên con đường giáo pháp. Mong sao cho tôi nhận biết được mình đang
bị gió nghiệp nào lôi kéo vì đã nhiều lần đau khổ triền miên trong sinh
tử!
Tôi cũng nên biết rằng cuộc sống này là ngắn ngủi và tạm bợ. Tâm
trí và thân thể luôn đổi thay trong từng giây phút. Cả tâm trí lẫn thân thể này
không phải của tôi hay là tôi. Và nhận thấy rằng tâm trí hay bị dao động vì
những khó khăn xảy ra trong cuộc sống ngắn ngủi này. Vì si mê và đầy ham muốn,
tôi cần phải biết rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi, già và bệnh là
những việc tự nhiên phải đến. Tôi phải cố gắng để biết rằng cái người được gọi
là "Tôi", chỉ là một tập thể của tinh thần và vật chất và ở đó không có một thực
thể nào gọi là linh hồn hay cái ngã thực sự hiện hữu.
Mong sao cho tôi
thấu hiểu được rốt ráo ý nghĩa của vô thường và vô ngã. Mong sao cho tôi được ở
trong hư vô! Và giác ngộ được chân lý cao tột để sau này có thể dẫn dắt được
những người khác! ”
Khi ngồi thiền, nên giữ thân thể thẳng nhưng thư
thả. Không nên cứng ngắt, bó buộc, đầu không nên gục xuống, thắt lưng phải
thẳng. Thân thể phải yên tĩnh và thăng bằng. Mặc dù tư thế kiết già là tốt nhất
khi thiền sinh ngồi trên một gối đệm nhỏ, có thể dùng ghế cho những người không
thể hoặc không quen ngồi kiết già. Ngồi kiết già hay bán kiết già sẽ dễ nếu có
một gối cứng để dưới bàn tọa. Đầu gối sẽ đụng đất và ba điểm tựa vững chắc (hai
đầu gối và bàn tọa) sẽ làm cho việc ngồi thiền được dễ dàng.
Mỗi ngày,
một người nên ngồi thiền trong một thời gian nhất định, cho đến khi có được sự
tập trung kha khá, lúc ấy ta nên kéo dài thêm thời gian ngồi thiền. Có người đốt
một nén nhang để đo thời gian ngồi thiền. Ngồi cho đến khi nén nhang tàn. Để hai
tay theo tư thế thiền, mắt có thể nhắm hay khép hờ tùy ý.
Có nhiều cách
thức được sử dụng để tập trung tâm trí, và hai cách thiền chánh đã được nhắc đến
như trên. Những cách thức khác như lặp đi lặp lại một chữ hay một câu và có thể
dùng xâu chuỗi. Nếu thiền sinh chú ý vào hơi thở, thì có thể dùng chữ "Buddho",
hoặc "Araham" để làm yên tịnh tinh thần. Thì thầm lặp lại âm tự đầu khi hít vào
và chú tâm vào âm tự sau khi thở ra. Cũng như đếm hơi thở (từ một đến mười -
thường không đếm hơn số mười, vì tâm trí sẽ dễ chạy loanh quanh) để giữ sự tập
trung.
Nhưng các phương cách này cần được bỏ đi khi ta bắt đầu có được
sự tập trung cao. Khi thực tập vào một câu thì xâu chuỗi được sử dụng để đánh
dấu mỗi câu bằng một hạt trên chuỗi.
Sự thực tập thiền được tiến triển
tốt đẹp khi sự tập trung vào một đối tượng được gia tăng. Nhưng cũng không nên
cho rằng thực tập thiền là vô ích khi có những lúc ta bị xao lãng, lo ra hay
buồn ngủ. Đây là những trở ngại cần phải đối diện. Và nếu nó được nhận diện bằng
sự chú tâm, không phải bằng sự bực bội hay chán nản, thì những khó khăn này sẽ
được khắc phục.
Để thành công, điều cần thiết là ta phải luôn cố gắng
kiên trì và quân bình.
Khi xả thiền, ta nên tụng một bài kinh và hồi
hướng công đức cho tất cả chúng sanh. Trong lúc này, nên tụng Kinh Từ Bi – Metta
Sutta (Bài kinh về lòng từ), vì bài kinh không dài nên rất dễ nhớ.
Vì
có nhiều cách tụng, cho nên nếu có được một cuộn băng của bài kinh này được đọc
tụng bởi các thầy thì rất tốt.
Trong vấn đề tụng kinh, việc hữu ích là
nên biết rằng một vài bài giảng của Đức Phật được nói ra bằng ngôn ngữ cổ điển
của Phật giáo. Một khi tâm trí bị phân tán thì bài kinh tụng có thể giúp một
người trở lại sự chú tâm. Vào những lúc bị xao lãng, thiền sinh không nên thất
vọng mà nên tiếp tục ngồi và tụng những bài kinh cho chính mình nghe. Đây là một
cách thực tập của các thầy ngày hai lần để phát triển tinh thần. Đồng thời cũng
là cách củng cố niềm tin và để quân bình trí tuệ.
Một cách thực tập
khác là thiền hành, có thể được thực tập ngay trong nhà hay trong vườn. Chiều
dài khoảng hai mươi hoặc ba mươi bước là đủ, vì nếu khoảng cách dài hơn tâm trí
sẽ chạy nơi khác, và nếu ngắn quá thì sự phân tâm sẽ dễ gia tăng. Một người nên
đi theo nhịp đi bình thường của mình, hai tay nối nhau để thong thả trước thân.
Đến cuối con đường thì nên quay lại theo chiều kim đồng hồ.
Vài lời tâm
nguyện cũng rất cần thiết cho việc thực tập. Không có một người Phật tử thành
tâm nào mà không thực tập thiền. Để tâm thực tập thiền, người đó phải có những
lý tưởng Phật giáo trong tâm. Nhờ nương tựa vào giáo pháp, người Phật tử sẽ dễ
vượt qua những trở ngại trong lúc thực tập. Bất cứ một trở ngại nào xảy đến đều
bị khuất phục nhờ vào sự thành tâm của người thực tập. Nếu trên bước đường tu
tập, thiền sinh nhận thấy bị bít lối, sự tu tập không tiến bộ, và người này
không có một vị thầy bên cạnh. Họ không nên chán nản, hay bỏ cuộc, mà phải nghĩ
rằng: "Tôi đang nhận lấy những quả không tốt mà tôi đã gieo trong quá khứ". Và
rồi người này nên nhớ lại lời cuối của đức Phật: "Tất cả những gì giả hợp đều sẽ
tan rã. Với chánh niệm, các người hãy tinh tấn". Tất cả những khó khăn cũng là
những giả hợp và rồi chúng sẽ thay đổi, trong lúc này hãy mãnh liệt, tận tâm sử
dụng chánh niệm để nhận thấy sự thật này.
Nếu một người không mệt lắm
sau một ngày làm việc và có cơ hội vào buổi tối, hoặc một lúc nào đó rảnh rỗi
thì nên ngồi thiền. Dẫu sao đi nữa, nên tập có thói quen ngồi thiền trước khi đi
ngủ. Nên nghĩ rằng: “một khi ta đã nằm xuống thì chắc gì ta sẽ lại thức dậy". Vì
thế, một người có thể nằm xuống để chết và cách này là cách hay nhất để nhắc nhở
ta loại bỏ những tánh xấu và để thực tập tỉnh thức.
Nếu một người thực
tập điều này, “nằm xuống để chết”, cách này rất hay để tập cho ta sẵn sàng cho
cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong tương lai. Để giúp ta dần dần từ bỏ,
không bám víu vào những gì không thuộc về mình, chẳng hạn, thân và tâm này. Một
câu kinh hay một chữ nào trong giáo pháp đều có thể được sử dụng, lặp đi lặp lại
nhiều lần trước khi đi vào giấc ngủ. Bằng cách này, một người bắt đầu và kết
thúc một ngày bằng sự thực tập giáo pháp của đức Phật. Ngoài việc thành tâm thực
tập cả ngày, đâu có gì tốt hơn nữa?
Ẩn
cư
Cách thực tập cao độ là sự ẩn cư. Một thiền sinh sốt sắng có
thể đi ẩn cư nếu những tiện nghi cho phép. Ở phương tây chỉ có vài nơi để thực
tập.
Điều quan trọng là làm sao nhận được lời chỉ dẫn trực tiếp nơi một
vị thầy có kinh nghiệm (sách chỉ là bước đầu, vì đôi lúc kể cả có thầy cũng vẫn
chưa đủ). Một khi tìm được vị thầy rồi thì một người phải hết lòng chuyên cần để
thực tập và để thể nghiệm lấy những gì mình đã học được.
Nếu một người
có được một vị thầy và có điều kiện để thực tập thì người này là người may mắn
nhất.
Nhiều người sẽ không có cơ hội có được một người thầy, và vài
người khác sẽ cố gắng đi ẩn cư để thực tập thiền ở vài nơi yên tịnh của miền
quê. Chỉ nên thực hành việc ẩn cư khi mà thiền sinh đã đạt được sự chú tâm cao.
Nếu không thì việc ẩn cư sẽ không có lợi ích, đôi lúc còn có vẻ tăng cường những
trần cấu tinh thần.
Sinh hoạt hàng ngày
Đã có rất nhiều bài viết về những cách thực tập thiền khác nhau.
Sau đây là những lời chỉ dẫn. Trước hết, một người không nên tự dối mình khi nói
về sự chú tâm. Không lợi ích gì khi mình tự dối mình và những người khác là cuộc
sống của mình là thiền trong sinh hoạt hàng ngày - trừ khi một người đã có được
sự chú tâm cao độ. Chỉ có những người từng ngồi thiền trong nhiều năm và giữ
giới như những tu sĩ thì mới có thể nói họ sống với "Thiền" trong sinh hoạt hàng
ngày; mà nếu thật sự có như thế thì thông thường người này cũng không nói điều
này ra cho người khác biết. Từ chối không cho sự hãnh diện có cơ hội để làm méo
mó trạng thái của tâm thức, một người nên giữ quân bình và biết chấp nhận giới
hạn của chính mình. Và đây là một bước lớn để tiếp tục thực tập. Nếu một người
cư sĩ tự nghĩ rằng mình là một vị A-la-hán thì điều này sẽ ngăn cản bước tiến
của mình; trong khi một người thành thật thì ít ra cũng có được sự hiểu biết để
trở nên khiêm tốn hơn.
Nếu không có chính niệm, thì khó lòng có hy vọng
sống được với thiền trong sinh hoạt hàng ngày. Những việc bình thường vẫn có thể
trở nên những đề tài cho sự thực tập thiền. Chính niệm là sự chú tâm, biết mình
đang làm việc gì ngay trong hiện tại. Chẳng có gì thú vị hết cho nên cần phải có
sự cố gắng lúc ban đầu để tránh không đánh mất “chính niệm”. Thường khi nào muốn
tránh những cảnh nhàm chán hay việc gì không thích hợp thì chúng ta hay hướng về
những thế giới không tưởng, nghĩ về quá khứ hoặc tương lai và trốn tránh hiện
tại. Nhưng nếu một người thật sự muốn hiểu rõ về mình, thì những việc nói trên
không có lợi ích gì hết, bởi vì nó được tổng hợp bởi những ảo tưởng, như sợ hãi,
si mê. Trong khi chúng ta thực hành thiền một cách nghiêm ngặt thì chính niệm có
thể theo dõi tất cả những gì đang xảy ra trong tâm trí; trong công việc hàng
ngày, ta nên đem chính niệm đến với việc làm của chúng ta. Một người không nên
"gởi" tâm trí đi lông bông, không để nó mơ tưởng về quá khứ hoặc tương lai. Đức
Phật ngày xưa có nói như sau:
"Quá khứ như một giấc mơ, tương lai tựa ảo
tưởng, trong khi hiện tại như đám mây”.
Sự so sánh này rất cần thiết để
giữ sự chú tâm, vì tâm trí hay chạy lăng xăng. Sự thực tập thiền giúp cho tâm
trí “nằm trong” cơ thể, nghĩa là luôn có sự chú tâm, nhận biết về một việc gì.
Chỉ có người thiền sinh hết lòng mới thấy được lợi ích của việc thực tập. Bởi vì
sự thực tập này cắt đứt mọi hứng thú đối với bên ngoài, và làm ngưng bặt sự suy
nghĩ viễn vông.
Cái hay của chính niệm là giúp ta tìm thấy được sự hứng
thú trong công việc hàng ngày. Mỗi ngày qua đưa chúng ta gần kề với cái chết và
cho dù với sự tái sinh ta cũng không biết mình sẽ đi về đâu.
Chỉ có hiện
tại cho chúng ta cơ hội để thực tập giáo pháp thay vì sống trong ảo tưởng hay
chán ghét những gì mình không thích (hoặc dễ dãi với lòng tham của chính mình),
với chính niệm, chúng ta có thể chuyển hướng những thói quen cũ. Không phải bị
kềm chế bởi tham lam hay sân hận, và không bị thống trị bởi những ảo tưởng, chỉ
có chính niệm mới có thể đưa chúng ta đến con đường giải thoát.
Trong sự
thực tập hàng ngày, chúng ta phải để chính niệm có mặt luôn luôn để giúp chúng
ta dần dần tách khỏi sự ràng buộc. Chúng ta cũng nên khôn ngoan lợi dụng những
cơ hội “nghịch” như: chờ đợi xe lửa hay xe buýt, trong lúc chờ đợi ai, bất cứ
lúc nào ta một mình trong vài phút. Thay vì chúng ta đọc báo, nói chuyện điện
thoại, hay tán dóc với người khác, sẽ có lợi ích hơn nếu chúng ta cho tâm mình
được "nghỉ ngơi".
Tách rời sự chú tâm khỏi những vật bên ngoài, tập hít
thở trong chính niệm, hoặc lặp lại những câu trong giáo pháp, hoặc những chữ như
"Buddho" (Phật) hoặc "Arahat" (A-la-hán), làm như vậy cho đến khi chúng ta trở
lại với công việc của mình. Trở về bên trong thường thường là một việc làm hết
sức lợi ích, nó giúp ta củng cố việc ngồi thiền, và ngồi thiền giúp chúng ta
vững mạnh hơn về khả năng quay lại bên trong.
Chú tâm vào hơi thở là
một cách tập trung rất tốt trong lúc chúng ta đi du lịch hoặc đang chờ xe buýt
hay xe lửa.
Tại sao ta phải hấp tấp và
thiếu kiên nhẫn?
Một chút thực tập về hơi thở nên dành cho
những lúc như thế này, chú tâm vào hơi thở giúp tâm trí ta bớt lăng xăng và giúp
cho cơ thể ta bớt dao động. Một du khách phải cứ nhìn ra cửa sổ trong lúc phi cơ
đang bay!
Tại sao ta phải làm nô lệ cho cặp mắt trong khi một chút thực
tập có thể lợi ích hơn. Một người không cần phải nghe những người chung quanh
tán gẫu, tại sao lại làm nô lệ cho "lỗ tai"? Người ta không thể đóng hai tai
lại, nhưng ai ai cũng có thể đem sự chú tâm của mình vào việc thực tập chính
niệm.
Cũng chính là chính niệm giúp cho ta tập trung trong lúc ngồi
thiền. Chẳng hạn như ham muốn nhục dục có thể bị tan biến khi ta nghĩ đến sự mục
rữa của thây ma. Nhan sắc được ban tặng cho các cô gái xinh xắn (hoặc anh chàng
đẹp trai) trở nên lố bịch khi ta nghĩ đến những ông bà già có hấp dẫn ai đâu.
Chỉ khi nào ta nhận thấy chính dục vọng sẽ đốt cháy kẻ ham muốn, lúc ấy ta mới
thấy nên từ bỏ nó.
Cũng như vậy, sự tham ăn dù chỉ chút chút cũng có
thể từ bỏ được khi ta tập trung sự suy nghĩ về những tiến trình của đồ ăn. Đồ ăn
đã nhai rồi dù có bày trên đĩa đẹp cách mấy cũng chẳng thấy ngon. Ói mửa cũng là
những thức ăn đó nhưng đâu có ai ham. Cả đến phân để trên đĩa bằng vàng cũng
không hấp dẫn được ai – nhưng đây lại là những gì còn lại của những món ngon đã
ăn! Khi một người suy ngẫm về thức ăn trong ba giai đoạn kể trên, lòng tham ăn
sẽ biến mất, và khi một người ăn, họ dùng thức ăn như là một phương thuốc để giữ
gìn thân thể này.
Trong lúc đang tức giận, chánh niệm có trách nhiệm để
biết rằng ta nên đem sự chú ý qua một đề tài khác hay một người khác. Chính
chánh niệm cảnh giác chúng ta khi chúng ta sắp sửa tức giận, và chính chánh niệm
sẽ giúp ta chuyển hướng và giữ được thế quân bình.
Khi ganh tỵ xuất
hiện, chính niệm giúp ta thấy bằng tâm trí là "ganh tỵ đang xuất hiện", và nếu
ta không vui mừng với niềm vui của kẻ khác thì chính niệm cũng cho ta biết rõ
điều đó để giúp ta giữ thế quân bình hoặc giúp ta hướng sự chú ý của mình đến
những đề tài khác. Đức Phật thật sự đã nói, "Chính niệm, ta tuyên bố, rất là lợi
ích ở mọi nơi".
Những người có ý tưởng lệch lạc cho rằng Phật giáo
khuyến khích sự thiền định cá nhân, cho nên không làm gì lợi ích cho xã hội. Họ
nên hiểu rằng người Phật tử tin là xã hội có thể tốt hơn, nếu mỗi người biết tự
sửa đổi.
Một xã hội lý tưởng theo người Phật tử, được đức Phật giảng
nói trong những bài pháp dành cho người cư sĩ, và đức Phật luôn nhấn mạnh sự
phát triển của từng cá nhân, nó quan trọng và là một yếu tố cần
thiết.
Một xã hội lành mạnh là nơi mà có những người dân sống hòa bình
với chính bản thân mình. Sự phát triển về trí tuệ và từ bi của một người có ảnh
hưởng đến những người chung quanh, như là bột nổi bỏ vào trong bột
bánh.
Vì vậy người Phật tử luôn kêu gọi hãy cố gắng đạt sự an bình
trong tâm mình, một khi mọi người có an bình trong tâm họ thì hòa bình sẽ có mặt
trên thế giới. Nếu chỉ muốn có hòa bình mà không tự tu tâm thì không làm sao có
được hòa bình miên viễn, vì gốc rễ tham, sân, si vẫn còn nằm trong tim mọi
người. Đó là không thực tế? Nó chỉ dành cho những người không thực tập. Những
người có thực tập luôn nhận thấy sự lợi ích của thiền; thiền giúp họ giải quyết
được một số vấn đề trong cuộc sống.
Cho dù có tham gia nhiều ngày để
thực tập thiền, con đường đưa đến Niết bàn vẫn cần nhiều nỗ lực. Đôi lúc gặp
phải trở ngại trên đường, nhưng với chính niệm làm ngọn đèn soi sáng, ta hiểu
được rằng mục đích của mình là đáng giá và huy hoàng, không phải chỉ cho riêng
ta mà cho tất cả mọi chúng sanh.
Thiên đường (Brahma-vihara) và sự hoàn
hảo của nó
Con đường dẫn đến Niết bàn có những nơi chốn gọi là "Thiên
đường”, nơi để ta luyện tập từ dở trở thành hay trên con đường tu tập giáo
pháp.
Như đã nhấn mạnh ở trên, mục đích là hạnh phúc cho mình và cho
tất cả chúng sanh. Vì thế một người phải hành động như thế nào để có được một
kết quả hạnh phúc.
Trong trường hợp này, một người cần phải đối xử với
những người khác như họ muốn được đối xử. Bởi vì mỗi một chúng sanh đều quý
trọng chính mình, và mong ước được hạnh phúc.
Một người không thể nào
có được hạnh phúc riêng rẽ mà không có nguyên nhân của nó, cũng không thể có
được hạnh phúc khi mà ta đối xử tệ với những người khác, hay những chúng sanh
khác. Mọi chúng sanh đều tham sống, sợ chết, đây là một điều rất thật đối với
chúng ta cũng như đối với các sinh vật khác.
Một người luôn luôn hành
động đúng và sống một cuộc sống từ bi là người thực sự thương chính bản thân
mình, vì họ làm những việc có lợi ích, có hạnh phúc. Những người khác, cho dù họ
nghĩ rằng họ rất thương bản thân họ, nhưng thật ra họ lại là kẻ thù tệ nhất của
chính họ vì họ làm những việc không có lợi cho họ cũng như những việc mà kẻ thù
của họ muốn làm cho họ.
Phẩm hạnh tốt dựa trên sự thuần thục của tâm
trí, một khi tâm trí được giải thoát khỏi sự kềm kẹp của tham, sân, si. Đối xử
với người láng giềng như đối xử với chính mình, nói thì dễ nhưng làm thì khó.
Những bài giảng của đức Phật có một giá trị đặc biệt là chỉ cho ta thấy làm thế
nào một phương cách được dịch giảng bằng kinh nghiệm, với phương cách thực tập
về thiên đường nơi tinh thần. Khi chúng ta nói đến “tinh thần”, chữ này không
nên được hiểu trong một ý nghĩa nhỏ hẹp của những tiến trình có tính cách tri
thức, nhưng mà bao gồm tinh thần – và – con tim, tri thức và tình
cảm.
Có bốn trạng thái thuộc về thiên đường: thân thiện, từ bi, vui vẻ
và bình thản. Tất cả những điều này, quan trọng là điều thứ nhất, những thực tập
thiền rất phổ biến ở những đất nước Phật giáo. Tiếp theo là một giải thích ngắn
cho mỗi trạng thái. Lòng thương xót (metta) là một tình thương không ích kỷ và
có thể lan rộng đến tất cả mọi người. Điều này sẽ trở nên dễ dàng một khi ta
thấm nhuần trong thiền định, khi mà phẩm chất của sự thân thiện, từ bi trở nên
một phần cá tánh nơi một người. Theo thói thường, con người chỉ "thương yêu" một
số người nào mà họ có mối liên hệ gia đình, v.v… Một tình thương yêu như vậy chỉ
là sự bám víu của nhục dục, một tình thương bị hạn chế, và những người đứng
ngoài tình thương đó thường bị làm ngơ hoặc bị ghét bỏ. Như vậy, tình thương yêu
có tính cách nhục dục không những liên hệ với sự bám víu (tham), mà còn liên hệ
với giận hờn (sân) và ảo tưởng (si), và như vậy người nào cảm thấy hài lòng với
tình thương kiểu này, sẽ phải trả một giá rất đắt.
Rất ít người có được
tình thương không bám víu, tình thương có thể trở nên vô tận và không cần bị thu
hẹp trong nhóm này hoặc người nọ. Vì tình thương có thể là vô biên, không chừa
ai hết, và như thế không có liên hệ gì đến ba độc, tham, sân, si.
Sự
thân thiện, từ bi có thể được phát triển dần dần nơi sự thực tập hàng ngày của
một người; nhưng nếu muốn nó hữu hiệu, thì cần phải thể hiện nó trong sinh hoạt
hàng ngày. Để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn bằng cách, ban đầu hãy đổi những
người trước đây mình ghét thành những người mình không để ý, và rồi khi sự thực
tập được củng cố, chuyển đổi nó thành đối tượng để phát huy sự tử tế. Đây là
phương thuốc mà đức Phật đã đề ra để chữa bệnh giận hờn và ghét bỏ. Cuối cùng,
một người cần nên cảnh giác với hai kẻ thù: "một kẻ thù ''gần'' là sự bám víu có
tính cách nhục dục, và thường bị lầm lẫn gọi là "thương yêu", trong khi kẻ thù
''xa '' là sự ghét bỏ.
Trong tiến trình phát triển lòng thân thiện, từ
bi, một người cần phải đề phòng hai trạng thái này.
Từ bi (karuna) là để
ý đến những đau khổ của mọi người trên thế giới. Nó khắc phục sự lãnh đạm thờ ơ
đối với nỗi khổ của chúng sanh. Như thế, lòng từ bi cần được thể hiện trong cuộc
sống bằng cách sẵn sàng giúp đỡ, và lo lắng cho những người đang khốn
đốn.
Đây có được một lợi ích là làm giảm đi sự ích kỷ bằng cách thông
cảm nỗi khổ của kẻ khác. Đây là phương thuốc trị bịnh độc ác, vì làm sao một
người có thể làm thương tổn những kẻ khác khi thấy họ đang đau khổ?
Đây
cũng có hai kẻ thù: "gần" là sự hối tiếc trong khi kẻ thù "xa" là ác độc. Cùng
vui (mudita) là vui với mọi người khi người thành công, sung sướng. Điều này
khắc phục thái độ khó chịu với kẻ khác, và sự ganh tỵ có thể xuất hiện khi nghe
kẻ khác sung sướng.
Nơi đây trong cuộc sống một người cần phải bày tỏ
niềm vui mỗi khi biết được rằng người khác được lợi ích về vật chất hay tinh
thần. Ở đây, điều lợi ích là mở rộng lòng đối với kẻ khác, và dẹp bỏ tính giấu
diếm.
Một người phát triển được sự vui vẻ, sẽ hấp dẫn vô số bạn hết
lòng với mình, và với những người bạn này hay những người khác, người này luôn
sống trong sự hài hoà. Đây là phương thuốc của đức Phật dành để trị sự ganh tỵ
và tỵ hiềm, và có thể ngăn chận nó phát triển. Hai kẻ thù của sự vui vẻ là sự
sung sướng cá nhân, nghĩ về những gì mình có được - đây là kẻ thù "gần"; trong
khi kẻ thù "xa" là sự ghét bỏ, hoặc chán nản .
Sự bình thản (upekkha)
cần được phát triển để đương đầu với những trạng thái mà một người phải chấp
nhận là mình bó tay, không thể chuyển đổi được gì. Sự bình thản khắc phục được
sự lo lắng và sự xao lãng không cần thiết về những việc có liên quan đến mình
hoặc mình không thể sửa đổi nó.
Điều này được phản ảnh trong cuộc sống
của một người bằng khả năng đối diện với những tình trạng khốn khó bằng sự trầm
tỉnh với một tinh thần không dao động. Lợi ích nhận thấy nơi sự phát triển là
làm thế nào cho cuộc sống của một người thêm đơn giản bằng cách rời xa những
hoạt động vô bổ. Đây là thuốc của đức Phật dành để trị bệnh xao lãng, lo lắng,
và nó là kẻ thù của chúng ta ; kẻ thù "gần" là sự thờ ơ, lãnh đạm, trong khi kẻ
thù "xa" là tham lam, oán giận đưa đến những việc làm không thiện
lành.
Ba sự hoàn hảo (parami) hoặc phẩm chất được nhiều Phật tử thực
tập và mong được giác ngộ - tiến trình được trình bày ở đây, và những người này
cũng tu tập thiền định.
Kiên nhẫn (Khanti-parami) và sự hoàn hảo của
nó
Kiên nhẫn là một phẩm chất rất được ca ngợi trong kinh điển Phật
giáo.
Kiên nhẫn có thể phát triển dễ dàng chỉ khi nào sự bồn chồn và
ghét bỏ đã lắng đọng nơi tinh thần, như lúc đang thực tập thiền.
Vô
thường có khuynh hướng làm cho một người hấp tấp và như vậy mất đi rất nhiều cơ
hội tốt, đây là kết quả của việc không có khả năng ngồi yên và để chờ mọi việc
tự nó giải quyết lấy - đôi lúc nó có thể tự sáng tỏ mà không cần có người nhúng
tay vào. Một người kiên nhẫn nhận được trái táo rớt sẵn xuống đùi trong khi
người xông xáo lại bị hụt.
Một khi tinh thần không yên tịnh, vì thiếu
kiên nhẫn, nó làm dao động tinh thần và đem theo những bệnh lo âu của thế giới
thương mại hiện đại.
Sự kiên nhẫn lặng yên chịu đựng - là một phẩm chất
rất quý giá trong việc thực tập tinh thần và nhất là trong sự thực tập thiền
định.
Thật là không hay khi mong đợi sự tỉnh thức tức thời sau năm phút
thiền định. Cà-phê thì có thể nhanh chóng, nhưng thiền định thì không, và chỉ có
hại khi cố gắng muốn đạt sự tỉnh thức tức thời. Đã bao nhiêu năm rác rưởi đầy
dẫy, một đống rác tinh thần khổng lồ, và vì vậy khi một người cầm một cái muỗng
rất nhỏ và bắt đầu múc rác, làm sao một người có thể mong chờ là đống rác biến
mất một cách nhanh chóng? Kiên nhẫn là câu trả lời, cùng với năng lượng kiên
quyết.
Người thiền sinh kiên nhẫn thật sự đạt kết quả với giá trị lâu
dài; người tìm kiếm "những phương thức nhanh chóng" hoặc "sự tỉnh thức tức thời"
tất phải chịu sự thất bại lớn bởi thái độ của họ.
Thật vậy, điều này cần
được nhận thấy rõ ràng nơi người đang tìm hiểu về giáo pháp (Dhamma); các bài
giảng này không dành cho người thiếu kiên nhẫn.
Người Phật tử xem cuộc
sống hiện tại của mình như là một thời gian ngắn có thể là tám mươi năm hay hơn
nữa, và cuộc sống cuối cùng là rất xa với các kiếp sống như thế này. Hãy ghi nhớ
điều này trong tâm, người Phật tử quyết tâm hoạt động tích cực trong kiếp sống
này để đạt sự tỉnh thức càng sớm càng tốt. Nhưng người này không đánh giá quá
cao khả năng của mình; người này chỉ tiếp tục sống với giáo pháp từ ngày này qua
ngày khác một cách kiên nhẫn và trầm tĩnh. Gấp gáp để đạt sự tỉnh thức (hoặc bất
cứ cái gì đó mà mình mong muốn), giống như một con bò rừng trong tiệm bán đồ sứ,
và như vậy một người sẽ không thể tiến xa được, trừ khi người này có cá tánh rất
đặc biệt để có thể thành công nhanh chóng, và quan trọng nhất là người này phải
hết lòng thực tập qua lời chỉ dạy của một vị thiền sư có kinh
nghiệm.
Với sự kiên nhẫn một người không làm chính mình bị thương tích,
nhưng cẩn thận bước từng bước trên con đường. Chúng ta biết rằng một vị Bồ Tát
rất sáng suốt về điều này, và luôn trau dồi tinh thần với sự hoàn thiện để tinh
thần không bị xáo trộn bởi những việc thông thường hay xảy đến từ bên ngoài. Vị
này quyết định là sẽ kiên nhẫn đối với những tình huống bên ngoài - không bị bực
bội khi mặt trời nóng quá hay thời tiết quá lạnh, không bị dao động bởi những kẻ
tấn công thân thể mình, chẳng hạn như các sâu bọ và muỗi. Vị này cũng không bị
phiền hà khi bị người chửi mắng, vu oan hay hành hung mình, dù trước mặt hay sau
lưng.
Sự kiên nhẫn của vị này vẫn không bị hư hao dù thân thể bị dày
vò, chịu những cú đánh, bị đánh bằng gậy hay bị liệng đá, tra khảo, và có thể bị
giết chết; vị này vẫn chịu đựng những điều này một cách kiên cường, vẫn kiên
nhẫn, không hề nao núng. Các tăng sĩ Phật giáo thường được nhắc nhở như vậy để
thực tập.
Trong truyền thống Phật giáo sự hoàn hảo về mặt kiên nhẫn được
nhắc đến nhiều hơn những phẩm chất khác. Bởi vì trong Truyện Tiền Thân đã hết
sức đặc biệt miêu tả sự kiên nhẫn. Vị thầy Khantivadi (Kiên Nhẫn) - Truyện Tiền
Thân [5] cần được đọc nhiều lần và nó là đối tượng thường xuyên của sự suy ngẫm
sâu sắc. Chỉ một người đặc biệt cao quý, và trong trường hợp này là đức Phật
Gotama, trong một tiền kiếp khi đức Phật là vị thầy Rishi, chỉ dạy về đức tính
kiên nhẫn, đã chịu đựng để cho vị vua, đang giận tức và say rượu, cắt thân thể
ngài ra từng mảnh. Sự cao quý dịu dàng và sức chịu đựng này chỉ có nơi một vị Bồ
Tát và đây là điều cần thiết cho tất cả những ai muốn đạt đến mục đích tỉnh
thức.
Tinh tấn (viriya-parami) và sự hoàn hảo của nó
Sự tỉnh
thức chỉ được nhận diện khi một người có kiên nhẫn, vì sự kiên nhẫn không thể có
được nếu không có sự cố gắng. Giáo pháp không bao giờ khuyến khích học thuyết
định mệnh, và người Phật tử chân chánh không bao giờ nghĩ rằng các việc xảy ra
là được quyết định trước một cách cứng nhắc.
Bằng chính niệm và tinh
tấn, ta có thể chiến đấu được với thuyết định mệnh. Sự hoàn hảo này là bản đối
chiếu với cái trước đó, và được cân bằng do thực tập, những điều này bảo đảm
rằng một Phật tử thành tâm, sẽ không thụ động chấp nhận phải chiến đấu hay gấp
gáp giải quyết sự náo động của chính bản thân hay của kẻ khác, mà sẽ biết kiên
nhẫn.
Bằng cách cảnh giác, trong thế giới Phật giáo có rất nhiều
"phương cách" hứa hẹn sự phong phú của giáo pháp. Người ta nghe những lời phê
bình như "Cần gì phải học và đọc sách?" hoặc "Sự phát triển tĩnh lặng thật là
mất thời giờ! Một người chỉ cần phát triển trí tuệ".
Những quan điểm
lệch về một phía không thể hiện được trí tuệ mà đức Phật nói đến, đức Phật luôn
dạy rằng phải cần thiết có sự phát triển cân bằng nơi tinh thần. Học tập và sách
vở hữu dụng cho những người muốn biết rõ đức Phật đã nói những gì trước khi bắt
đầu chuyên tâm thực tập.
Một khẳng định khác là không có trí tuệ thật
sự (chỉ là những ảo tưởng) xuất hiện đối với tâm thức của một người không có
kinh nghiệm về tĩnh lặng. Những quan điểm lệch lạc như thế này thường dựa vào
những kinh nghiệm khác thường của những "vị thầy" tạo ra chúng, điều này thường
làm cho một số người bị lạc đường vì ham muốn những kết quả nhanh chóng, cộng
thêm không thích sự khó nhọc mà ra.
Cần phải có sự kiên nhẫn để chấp
nhận những điều kiện cần thiết để đạt thành công trong thiền định (như được
trình bày ở đây), và kết quả của sự thất bại chỉ vì đi sai đường.
Thiền
sinh phải áp dụng hết mình vào bất cứ công tác nào được giao phó, và phải hoàn
thành công việc đó, không biết mệt mỏi để sẵn sàng bắt tay ngay vào một mục đích
mới.
Nói về sự mệt mỏi, có tất cả là hai loại: một là vì cơ thể mệt
nhoài; và hai là những yếu tố không khéo léo của biếng nhác và uể oải do tinh
thần gây ra.
Trong khi loại mệt mỏi đầu tiên thì không thể tránh được,
nhưng loại sau chỉ xuất hiện khi gốc rễ của si mê (hoặc ù lì) trở thành thống
trị nơi phần tinh thần. Điều này xảy ra khi có một trạng thái như, cái này không
thú vị đối với "tôi", không thích, không muốn và "tôi" muốn chạy
trốn.
Con người phàn nàn là họ càng lúc càng mệt mỏi khi ngồi thiền
trong lúc thực tập cao độ còn hơn là lúc họ đọc những sách nặng nề. Khi cái ngã
cảm thấy bị đe dọa bởi dự kiện tự bộc lộ mình, nó liền phóng ra một màn sương mù
uể oải dày đặc bắt nguồn từ si mê. Ngược lại, nhiều người thực tập thiền nhận
thấy rằng họ không cần ngủ nhiều như lúc trước, trong khi năng lực trở nên tự
nhiên và không cần sự cố gắng một khi được thực tập và trở nên hoàn hảo như vị
Bồ tát.
Sự hoàn hảo này được miêu tả bằng câu chuyện của người dẫn đầu
đoàn lữ hành, đã mạnh mẽ cứu sống những người thương buôn, và thú vật được gởi
gắm cho ông. Trong lúc những người khác chịu thua và đầu hàng cái chết khi đoàn
lữ hành lạc đường vào nơi sa mạc và thực phẩm không còn; người dẫn đầu đoàn lữ
hành bắt buộc một người trong bọn đào đất và tìm được nước. Trong một tiền kiếp,
chính đức Phật Gotama là người dẫn đầu đoàn lữ hành, cố gắng không phải chỉ vì
mạng sống của riêng mình mà vì tất cả mọi người khác.
Trong các đoạn
kinh Pali các tăng sĩ cũng được nhắc nhở như là “người dẫn đầu đoàn lữ hành",
cho thấy rằng chỉ có đức Phật hoặc một vị Bồ tát là có khả năng chỉ dẫn cho
những người khác. Nếu chúng ta thực tập một cách hăng hái thì chúng ta cũng sẽ
thấy hăng hái đối với sự tiến bộ của những người khác. Vô số mẩu chuyện như trên
được tìm thấy trong các tác phẩm Phật giáo, cho thấy rằng năng lực rất là cần
thiết, và từ năng lực này mà xuất hiện sự kiên trì và quyết tâm để nhận thấy
được chân lý, thấy được Niết bàn.
Tự chủ
(samadhi-parami) và sự hoàn hảo của nó
Hãy ghi nhớ trong tâm chữ
này và những ý nghĩa của nó với những chữ chuyên môn như (tâm thức) phát triển
(bhavana), định (jhana), thấu hiểu sâu sắc (vipassana), nhất tâm (ekaggata),
thực tập thiền (kammatthana), bấy giờ chúng ta có thể khảo sát cái gì đã cấu tạo
nên sự tự chủ hoàn toàn. Cái gì phân biệt được giữa một người Phật tử thuần thục
dù cho vị này có là một vị Bồ tát hay không, và một người thiền sinh tầm thường
(trong bất cứ một tôn giáo nào). Thường thì vị sau hay bám víu chặt chẽ vào
những niềm vui trong những dục giới cao hơn, hoặc trong những niềm vui thanh
tịnh của thế giới có hình thể, và kết quả là sự tái sinh ở một trong những cõi
thiên giới này.
Nếu một người để mình bị hạn chế ở phạm vi này, nơi mà
những khoái lạc và niềm vui rất lớn và rất ít đau khổ, thì không chắc gì người
này có thể tạo ra năng lượng cần thiết để đạt đến sự hoàn hảo của trí
tuệ.
Vì thế, một thiền sinh giỏi cố gắng thành thạo trong thiền định
(khi muốn vào thiền định thì vào, và thâm nhập vào đấy khi người này muốn),
trong khi đó không để bị bám víu vào những trạng thái này. Nhưng một người cũng
cần nên ghi nhớ rằng đây chỉ là áp dụng cho thiền sinh kinh nghiệm đã đạt được
những trạng thái định nói trên. Nếu một người chưa đạt được những trình độ này
thì sự khát vọng mãnh liệt, không thờ ơ, sẽ là một thái độ đúng đắn.
Sau
khi trải nghiệm qua những trạng thái định này, nó có thể được xem là vô thường,
không thỏa mãn và trống rỗng, không có cái ngã hay linh hồn (aniccam, dukkham,
anatta), theo tiến trình, sự không tham đắm sẽ xuất hiện một cách tự nhiên và sự
thấu hiểu sâu sắc (vipassana) cũng sẽ được kinh nghiệm qua. Và như vậy những
trạng thái định (và năng lực có thể xuất hiện cùng lúc với chúng) nơi thực tập
của Phật giáo, không bao giờ là sự kết thúc, mà nó chỉ được xem như một cách để
trau dồi sự hiểu biết và trí tuệ sâu sắc. Sự kiện này xuất hiện khi tâm thức đã
được hợp nhất với nhiệm vụ khảo sát tâm và thân để biết rõ những đặc điểm của
nó.
Một câu chuyện nói lên ý nghĩa của sự hoàn hảo này là cuộc đời của
Kuddalamuni. Tên của ông có nghĩa là người thông thái Cuốc Chim (Mattock), và
ông được gọi như vậy vì nỗi khó khăn mà ông kinh nghiệm qua để thoát khỏi lòng
tham đắm đối với cái cuốc chim của ông.
Nhiều lần rời khỏi nhà để vào
rừng tham thiền, ông bị cái cuốc chim và nghề nông lôi ông trở lại. Ngày nọ, sau
khi suy nghĩ về tính không kiên định trong lúc hành thiền, ông cầm cái cuốc chim
và xoay tít nó quanh đầu của mình, và cuối cùng quăng nó vào đáy sâu của sông
Hằng (Ganges). Sau đó, ông bật lên tiếng kêu vui mừng.
Một vương tước
trong vùng đang đi ngang qua đấy với đội lính, cho người đến hỏi xem vì sao
người nông dân này vui mừng quá đỗi như vậy, và nhà hiền triết này liền kể lại
kinh nghiệm của mình. Vị vương tước và vài người lính liền theo nhà hiền triết
thực tập thiền trong rừng; sau đó, theo chuyện kể, tất cả đều trải nghiệm một
cuộc sống nơi thế giới có hình thể.
Nhà hiền triết Cuốc Chim, không ai
khác hơn là đức Phật Gotama trong một tiền kiếp, trình bày một khái niệm khác về
sự hoàn hảo của thiền định: khả năng chỉ dẫn cho người khác thực tập thiền sau
khi đã tự mình thành tựu. Cuối cùng chúng ta có thể cho thêm vài ghi chú ngắn về
những nguy hiểm khi thực hành thiền.
Những nguy hiểm trong lúc thực tập thiền
Trong khi thực tập thiền, một thiền sinh có thể bị lạc đường, vì
có nhiều lý do. Những điều quan trọng sẽ được nêu ra đây để cảnh giác mỗi thiền
sinh vì nó thường hay xảy ra.
Trước hết, một nguy hiểm quan trọng là
thiếu sự thúc đẩy đúng đắn trong việc thực hành thiền. Khi Bát Chánh Đạo được
trình bày, phần "trí tuệ” đứng ngang hàng với (lần đầu) sự hiểu biết trí thức
đúng đắn, kế đến là động cơ thúc đẩy chính đáng, và rồi nhấn mạnh về những gốc
rễ khéo léo của cảm xúc làm nền tảng cho sự thực hành: Những gì có liên quan đến
sự từ bỏ (không ham muốn), thiện chí (không ganh ghét) và không bạo động được
nhắc đến. Nếu một người đến với thiền Phật giáo mà không có sự hiểu biết chính
đáng về khổ (dukkha) và sự chấm dứt của đau khổ, thêm vào đó không có động cơ
chính đáng, thì chắc chắn rằng sự thực tập thiền của người này sẽ dễ bị lạc
lối.
Thí dụ, có những người thực hành thiền như là một cách để đầu tư
quyền lực, họ có thể gây ảnh hưởng hoặc thôi miên các học trò. Những kẻ khác xem
đây như là một cách nhanh chóng để có nhiều học trò và mau làm giàu. Để được
nổi tiếng cũng là một động cơ không xứng đáng. Tất cả những điều này, như là
những động cơ đùa giỡn với thiền định, có thể đưa đến bệnh hoạn cho kẻ không
thận trọng, và đôi lúc đưa đến sự rối loạn tâm trí.
Trong thiền Phật
giáo, không có gì tệ hơn một người cho rằng kinh nghiệm của mình là tột bực, và
cho mình là một vị thầy trong khi kinh nghiệm thiền của họ còn non
nớt.
Ở đây cho thấy rõ ràng là điều này có thể đưa đến một nguy hiểm xa
hơn nữa - là lòng kiêu hãnh dưới nhiều hình thức. Sự kiêu hãnh của một người
nhìn được ánh sáng trong lúc thiền định, và cho rằng đây là một dấu hiệu báo
trước của sự nhập định. Kế đó, sự kiêu hãnh của kẻ vừa chạm đến trạng thái định
dù chỉ là một khoảnh khắc, và tự cho rằng mình là Người Cao Quý, và đây là một
yếu tố rất mạnh mẽ để tự thuyết phục, nếu như không thuyết phục được những kẻ
khác.
Những người tầm thường khi thực tập thiền có thể để ý đến những
thái độ “thánh thiện hơn người khác”: “Tôi cố gắng, trong khi anh…”, hoặc “ Tôi
thực tập thiền mỗi ngày, trong khi anh…".
Sự kiêu hãnh là một chướng
ngại rất lớn cho bất cứ sự tiến triển nào, và trong khi chỉ có đức Phật hoặc vị
A-la-hán mới có thể dẹp bỏ nó, mọi người nên dè dặt, và luôn sử dụng chính niệm
để kiểm soát nó.
Một nguy hiểm khác là người luôn tìm kiếm cái gọi là
"tiến bộ". Người này tin chắc rằng mình đang "tiến bộ", vì khi thiền định họ
thấy những ánh sáng, nghe những âm thanh, hoặc có những cảm giác kỳ lạ. Theo
thời gian người này bị những thứ ấy quyến rũ, và dần dần quên rằng mình thực tập
thiền là ước vọng tìm con đường giác ngộ. Sự “thiền định” của người này trở nên
thoái hoá, nghiêng về những ảo mộng và biến cố kỳ lạ, đưa kẻ này vào thế giới
của huyền bí và ma thuật.
Con đường này là con đường đưa thiền sinh vào
những vướng mắc. Những hiện tượng này dù có hấp dẫn cách mấy đi chăng nữa, thiền
sinh phải mạnh mẽ dẹp bỏ nó bằng cách chỉ chú tâm, không để cho các ý nghĩ rời
rạc chú ý đến nó, và như vậy sẽ tránh được những xao lãng vô bổ.
Ngoài
những "ảo mộng" mà một thiền sinh có thể thấy, cho dù nó ở trong (được tạo ra
bởi tâm thức của một người) hay ở ngoài (được tạo ra bởi những sinh vật bên
ngoài), đối với vài thiền sinh, họ cũng trải qua một kinh nghiệm sợ hãi như thấy
được thân thể bị tan hoại chỉ còn xương hoặc bị phình ra như một xác chết. Nếu
một kinh nghiệm như thế này xảy ra, hoặc những kinh nghiệm khác tương tự như
thế, một người cần thu hồi lập tức cái thấy của mình khỏi ảo giác này, nếu như
một người không có thầy hướng dẫn. Những ảo giác đáng sợ như thế này chỉ có thể
được sử dụng một cách chính đáng và lợi ích, nhưng nếu không có sự chỉ dẫn của
một vị thầy thì thiền sinh nên tránh đi là hơn.
Một nguy hiểm khác nữa
là cố gắng thực tập thiền trong khi tâm thần đang bị dao động bởi những cảm xúc,
tâm lý mất thăng bằng và chưa chín chắn.
Sự hiểu biết về giá trị của
những việc làm phước thiện hoặc tạo công đức rất hữu dụng trong lúc này. Công
đức để thanh tịnh tinh thần, đây là một nền tảng rất tốt cho sự phát triển tinh
thần, và sẽ làm cho việc nhập định được dễ dàng, và như vậy sự hiểu biết sâu sắc
sẽ xuất hiện dựa vào công đức đã gieo.
Những việc làm công đức có thể
được tìm thấy trong cuộc sống như: bố thí với lòng rộng lượng, giữ gìn những
giới cấm, giúp đỡ và phục vụ những người khác, kính trọng, và hết lòng nghe
giảng pháp (Dhamma), thiết lập sự hiểu biết chính đáng về pháp - tất cả những
điều này là việc làm công đức, đem đến hạnh phúc, và những cảm xúc chín chắn.
Mọi người nên luôn nhớ rằng công đức mở tất cả các cánh cửa ở mọi nơi. Công đức
có thể làm được, mang đến nhiều cơ hội.
Hãy để tâm thức luôn nghĩ về
các việc công đức, là sửa soạn cho tâm thức có thể thực hành thiền và phát triển
sự nhập định cũng như đạt được trí tuệ.
Nếu một người thực tập thiền mà
vẫn nắm giữ những tham đắm của mình, những gì mình thích cũng như ghét, rõ ràng
là làm cho con đường trở nên khó khăn hơn nếu không muốn nói là nguy
hiểm.
Thiền định ngụ ý là từ bỏ, và không có một thực tập nào có thể
thành công nếu một người không sửa soạn ít nhất là việc cố gắng giảm bớt tham
lam và sân hận, canh chừng nỗi ham muốn nhục dục, và nhận diện được sự si mê khi
nó xuất hiện và làm mờ tâm trí.
Một người chấp nhận từ bỏ cho tới lúc
có những thay đổi bên ngoài (chẳng hạn như trở thành một vị tăng hay ni), cũng
còn tùy thuộc vào cá nhân và hoàn cảnh xung quanh, nhưng chắc chắn một điều là:
sự từ bỏ từ bên trong, một điều khá quan trọng, đó là thái độ từ bỏ đối với
những dự kiện không tốt của tinh thần cũng như sự buông lung dục
lạc.
Một mối nguy hiểm khác cũng thường liên quan đến những nguy hiểm kể
trên, có một người tự dưng có cơ hội để thực tập thiền định trong một thời gian
dài hạn. Người này ngồi xuống với quyết tâm là, "Bây giờ tôi sẽ thiền", dù cho
người này có một năng lực rất mạnh và họ ngồi và ngồi, và đi và đi, nhưng tâm
thần thì xáo trộn và không được an bình. Có thể là vì họ cố gắng quá do đó bị
xáo trộn. Hơn nữa, người này nên hiểu rằng khi thiền cần biết đến giới hạn của
chính bản tánh mình. Cũng giống như bất cứ người công nhân nào biết được giới
hạn của sức lực mình và cẩn thận không để mình bị mất sức. Với chính niệm một
người cần biết đâu là cực độ của lười biếng, căng thẳng để mà tránh.
Sự
cố gắng quá độ hoặc thực tập quá mức sẽ tạo nên những trạng thái xáo trộn về mặt
cảm xúc. Sự tức giận bất chợt, hoặc kéo dài, thêm vào những việc nhỏ nhặt, những
ham muốn nhục dục mãnh liệt, những ảo giác kỳ lạ và những hình ảnh tưởng tượng
quái dị có thể xuất hiện từ sự thực tập gay go nhưng thiếu sáng
suốt.
Với những nguy hiểm này chỉ có một vị thầy kinh nghiệm mới có thể
cho được lời khuyên thích ứng, và như thế tránh được những nguy hiểm nói trên và
những đổi hướng sai lệch, và một người có thể tiếp tục thẳng tiến tới con đường
Niết bàn.
Những người nào không có thầy cần tiến bước một cách cẩn
trọng, và cẩn thận kiểm soát sự phát triển của mình với chính niệm. Nếu người
này để ý với chánh niệm và thấy rằng dù cho cố gắng với sự thực tập thiền, họ
vẫn không thay đổi được gì cho cuộc sống hiện tại của họ, họ không có được sự an
bình nội tại hoặc đối với những người chung quanh, họ cũng không có sự liên hệ
tốt đẹp hơn, như vậy có nghĩa là có gì không ổn.
Vì thế nên ngưng tập
thiền trong một thời gian, và trong lúc này nên tìm những tài liệu xác thực, tốt
nhất là gặp một vị thiền sư có kinh nghiệm, và nên để ý đến những vấn đề đạo đức
chưa được hoá giải, nếu không thì tâm thức khó lòng mà phát triển được; và nên
cố gắng sống đời sống giới hạnh căn bản của người Phật tử. Con đường thực tập
của Trung Đạo sẽ không có tiến triển nếu một người xao lãng những vấn đề căn bản
đạo đức.