Leonard A. Bullen là một trong những nhà tiên phong về hoạt động Phật giáo tại
Úc. Ông là chủ tịch đầu tiên của Hội Phật Học Victoria, được thành lập vào năm
1953, và ông là người đầu tiên trong Ban Điều Hành của Hội Đoàn Phật giáo Úc.
Ông cũng là phó chủ bút của tờ Phật giáo Metta. Ông mất vào năm 1984, hưởng thọ
76 tuổi.
Những sách báo của ông được Buddhist Publication Society xuất
bản:
Kỹ thuật Sống (A Technique of Living – Wheel No. 226/230) và Hành
Động & Phản ứng trong Phật pháp -trong Nghiệp và Quả (Action and Reaction in
Buddhist Teaching - in Kamma and Its Fruit - Wheel No.
221/224).
_____________
Khi nghe một điều gì
về Phật giáo trong bản tin tức hàng ngày, bạn thường nghĩ đến một tôn
giáo thờ nhiều hình tượng to lớn, có các thầy tu áo vàng, với không
khí dày đặc mùi khói nhang. Bạn có cảm giác tôn giáo nầy không phải
dành cho bạn, ngoại trừ có thể đấy chỉ là một buổi trình diễn ly
kỳ, hấp dẫn.
Tuy nhiên, chẳng lẽ Phật giáo chỉ có thế thôi? Các
tân nhiếp ảnh gia không chụp được các ảnh thật sự về Phật giáo hay
sao? Báo chí trình bày cho bạn thấy những hào nhoáng của tôn giáo đó,
hay đó chỉ là cái dáng vẻ bề ngoài?
Chúng ta hãy nhìn rõ xem
Phật giáo thật sự là gì, Phật giáo được trình bày rành rẽ tận gốc
rễ, vì Phật giáo vẫn hiện hữu ngay cả dưới các trang sức bên ngoài.
Mặc dù Phật giáo, thông thường được xem là một tôn giáo, căn bản của
Phật giáo là trau dồi, rèn luyện tâm. Thật sự thì với truyền thống
của tu viện và những yếu tố về mặt đạo đức, Phật giáo sở hữu nhiều
đặc điểm với ngoại hình mà người Âu Mỹ thường cho là thuộc về tôn
giáo. Tuy vậy, Phật giáo không tin vào một đấng thượng đế, vì Phật
giáo cho rằng vũ trụ được hình thành và chuyển vận bằng những định
luật không có chủ thể, vũ trụ không phải là sáng tạo của một đấng
trời nào; Phật giáo không chủ trương cầu xin, vì đức Phật là một vị
thầy, không phải là thượng đế, và Phật giáo xem việc thờ cúng không
phải là một điều luật bắt buộc, nhưng đó là cách để bày tỏ sự biết
ơn đối với đức Phật và là phương thức để trau dồi, phát triển thân
tâm. Vì thế, với những nhận xét như nói ở đây, Phật giáo không phải là
một tôn giáo.
Lại nữa, Phật giáo hiểu rằng niềm tin không thể
chỉ gói gọn trong sự tin tưởng vào lời chỉ dạy của đức Phật. Một
người Phật tử không được tin vào bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy
được đức Phật nói ra, hoặc vì đó là điều được ghi trong sách cổ,
hoặc vì điều ấy được truyền xuống từ những bậc cha ông, hoặc vì có
nhiều người tin vào điều ấy. Phật tử có thể xem lời dạy của đức
Phật như một giả thuyết, và truy cứu về điều ấy, nếu đúng thì Phật
tử hãy tin tưởng; người Phật tử không nên chấp nhận bất cứ điều gì
nếu như thấy nó không đúng lý lẽ. Điều nầy không có nghĩa là mọi
thứ đều phải được trình bày một cách hợp lý, vì có những nhận
thức nằm xa khung kính tri thức và chỉ có thể nhận biết bởi sự phát
triển về mặt tâm linh. Nhưng yếu tố chánh vẫn là không nên mù quáng
tin về mọi điều trong lời dạy của đức Phật.
Phật giáo là
cách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi
trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn, một
trạng thái xa hẳn cấp bậc của một tâm trí thông thường, chưa được rèn
luyện. Mục tiêu tức thời là đánh ngay vào những gốc rễ của đau khổ
trong cuộc sống hàng ngày.
Mọi hoạt động của con người được
chỉ dẫn, ngay đó hay xa hơn, để tiến đến hạnh phúc bằng cách này hay
cách khác; hoặc giả để bày tỏ một việc bằng những chữ tiêu cực,
tất cả hoạt động của con người được chỉ dẫn để đạt giải thoát,
vượt qua những việc bất như ý, không hài lòng. Bất như ý, có thể
được xem như khởi điểm của hoạt động con người, và hạnh phúc là mục
đích cao cả nhất.
Bất mãn hay bất như ý, khởi điểm hoạt động
con người, là điểm xuất phát trong Phật giáo; và điểm này được bày
tỏ bằng công thức của Bốn Câu Căn Bản, yếu tố của sự bất mãn được
chỉ rõ, nguyên nhân, cách chữa, và phương thức để chữa .
Câu Căn
Bản Thứ Nhất như sau: Trong Đời Sống con người không thể tránh được sự
bất mãn.
Nguồn gốc ý nghĩa của câu nầy, chữ “bất mãn” thường
được dịch là “đau khổ”, bao gồm ý nghĩa không chỉ là nỗi đau, buồn
phiền, và bất mãn, nhưng mọi thứ đều là không như ý, từ nỗi đau đớn
thể xác và sự khổ não về tâm bệnh, cho đến mệt mỏi chút ít, chán
nản hay chỉ một chút thất vọng.
Đôi khi lại chỉ cho sự “bất
mãn” hoặc “bất như ý”; trong vài bài pháp có thể những từ nầy được
dùng một cách chính xác, và ở lúc khác từ “đau khổ” lại được sử dụng.
Vì lẽ nầy, chúng tôi sẽ dùng cả hai từ “đau khổ” và “bất mãn” hay
“bất như ý” tuỳ vào nội dung của bài pháp thoại.
Trong vài bài
dịch từ bản gốc, thì sanh là khổ, bệnh là khổ, già là khổ, và sung
sướng là khổ. Trong bản tiếng Anh, câu cuối cùng không có nghĩa gì;
nhưng nếu chúng ta sửa lại là “sự thỏa mãn không được như ý” thì có lẽ
dễ hiểu hơn, vì mọi thỏa mãn đều vô thường, và mặt trái của sự sung
sướng, thỏa mãn thường là đau khổ, và từ nhận thức nầy, chữ không được
như ý có lẽ đúng lý hơn.
Bây giờ đức Phật dạy rằng sự bất
mãn hoặc đau khổ là việc không thể tránh khỏi, trong đời sống con
người có cái “ngã”; và “đời sống có cái ngã” cần được giải thích.
Tóm lại, kinh điển dạy rằng bản ngã được xem là một linh hồn cố
định, bất biến, đây là một điều không có thực.
Trung tâm cốt
lõi của mỗi sinh vật không phải là một linh hồn bất biến, mà là
dòng sông cuộc sống, một nguồn năng lượng luôn thay đổi, và phút giây
kế tiếp không bao giờ giống như phút giây vừa trôi qua. Cái ngã, được
xem như một linh hồn bất diệt, và đây là ảo tưởng của bản ngã, nỗi
đau khổ nhất bắt nguồn từ nơi đây. Cuối cùng khi cái ảo tưởng về Tôi
được chuyển hoá thì đấy là sự giác ngộ, trạng thái nầy cao nhất,
và nằm xa hơn cái vũ trụ tương đối mà chúng ta biết. Nơi trạng thái
cao nhất này, đau khổ bị dập tắt; khi bất cứ một cái gì về “ngã”
còn tồn tại, cho dù chỉ là một ảo tưởng nhỏ, đau khổ vẫn còn hiện
diện.
Vì vậy, chúng ta phải hiểu rằng Câu Căn Bản Thứ Nhất
không có nghĩa là đau khổ không thể tránh được; nó chỉ có nghĩa là
trong cuộc sống nơi cái ngã ngự trị, ta không thể tránh khỏi đau khổ,
và nếu như ảo tưởng cái ngã còn, thì đau khổ vẫn tiếp
diễn.
Bây giờ chúng ta nói đến Câu Căn Bản Thứ hai, như sau:
Nguyên nhân của đau khổ (bất như ý) là ham muốn.
Nếu bạn trợt té
trên sàn nhà trơn ướt và bị bầm mình, bạn nói nguyên nhân cái đau mà
bạn đang phải chịu đựng là vì sàn nhà trơn trợt. Điều nầy đúng, và
nếu nói vết bầm của bạn là do ham muốn mà ra thì chắc là không đúng
rồi.
Nhưng câu hai không nói đến trường hợp cá nhân, hoặc nguyên
nhân tức thời. Câu hai muốn nói đến sức mạnh hợp nhất để gìn giữ
nguồn sống là sự ham muốn cho chính bản thân; vì nguồn sống nầy – ảo
tưởng về cái ngã – chứa đựng những điều kiện cho đau khổ, trong khi
sàn nhà trơn trợt chỉ là một cơ hội cho đau khổ xuất hiện.
Vì
bản chất của thế giới mà chúng ta đang sống, thật là điều không
tưởng khi muốn chữa đau khổ bằng cách loại bỏ hết những cơ hội có
thể mang lại đau khổ; cũng như không thể đánh vào nguyên nhân hay cơ sở
chánh của cái khổ.
Vì thế Câu Ba căn bản là: Giải thoát sẽ
đạt được bằng cách tiêu diệt ham muốn.
Sự ham muốn của cái
ngã là giữ chặt lấy đời sống; dòng sông ý thức hiện hữu mà chúng ta
gọi là ngã; và chỉ vì cái si mê của ngã mà sự bất như ý và đau
khổ xuất hiện. Khi diệt trừ được sự nắm giữ si mê về ngã, gốc rễ
của đau khổ cũng bị tiêu diệt.
Mục đích cao nhất của thực tập
trong Phật giáo là để tiêu diệt bản ngã. Chính ngay nơi nầy sự hiểu
lầm xuất hiện, và đó là điều tự nhiên; nhưng một khi nhận thấy rằng
tiêu diệt cái ngã là huỷ diệt si mê thì sự hiểu lầm nầy sẽ biến
mất. Khi si mê được tẩy trừ, thực tại xuất hiện; như vậy tiêu diệt si
mê là để thực tại hiển hiện. Khi si mê về cái ngã vẫn tiếp tục che
tối thực tại thì ta không tài nào tìm thấy nó.
Giờ đây khi si
mê bị tiêu diệt thì thực tại nầy là gì. Thực tại cao tột là Không
Duyên Khởi, cũng được gọi là Không Sanh, Không Cội Nguồn, Không Pha Lẫn.
Với cách thức diễn đạt không đầy đủ, không chính xác, chúng ta có thể
tạm diễn tả nó như một trạng thái khả quan tích cực. Đó là nơi có
hạnh phúc và tự do, hoàn toàn thoát khỏi đau khổ và nó rất khác
biệt với trạng thái hiện hữu tầm thường và không thể nào được diễn
tả bằng lời nói. Trạng thái Không Duyên Khởi có thể được chỉ dẫn – để
đạt đến điểm cao tột – chỉ bằng cách nói về những điều mà trạng thái
đó không có.
Trong các bài pháp Phật giáo, Không Duyên Khởi
thường được giải thích là tâm không còn tham, sân, si. Đây cũng nói
đến sự hoàn hảo của các cá tính đối nghịch, vị tha, từ bi, và trí
tuệ.
Đạt đến trạng thái Không Duyên Khởi là mục đích cao tột
của tất cả thực tập nơi Phật giáo, và cũng tương đương như sự giải
thoát rốt ráo khỏi đau khổ và sự bất như ý. Sự việc nầy đưa chúng
ta đến với câu cuối cùng của bốn Câu Nói Căn Bản.
Câu Căn Bản
Thứ Tư: Con đường giải thoát là Bát Chính Đạo.
Con đường có tám yếu tố
sau đây:
Hiểu biết đúng, sự hiểu biết về bản chất chân thật của hiện
hữu
Suy nghĩ đúng, ý nghĩ không còn vướng vào nhục dục, sự xấu xa, và
độc ác.
Nói lời chân thật, không bịa đặt, nói xấu, nói lời cộc cằn thô
lỗ, và không nói nhảm.
Hành động chân chính, tránh việc sát hại, trộm
cắp, và tà dâm.
Cuộc sống chân chính, nghề nghiệp không làm hại đến các
chúng sinh.
Cố gắng chân chính, hoặc cố gắng tiêu diệt kiết sử nơi tâm
thức và nuôi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp.
Tâm thức chân chính, sự hoàn
hảo của chánh niệm.
Tư duy chân chính, nuôi dưỡng tâm thức qua việc
thiền định.
Bây giờ bạn thấy trong Con đường Bát Chính Đạo, quan trọng
là nó không có tính chất tôn giáo; nó giống như khoa tâm lý đạo
đức.
Nhưng con người ở phương Đông cũng như ở phương Tây, nói chung,
giống như sự đòi hỏi phiến diện bằng cách này hay cách khác – ít nhất ở mặt bên
ngoài – những cái không quan trọng lại được xem là cần thiết.
Trong khi
những đặc điểm phiến diện trong thực tập Phật giáo cần được thay đổi tùy vào
hoàn cảnh xung quanh, những đặc tính quan trọng, không thay đổi của thực tập
được tóm tắt trong bảng chỉ dẫn của Bát Chính Đạo, đức Phật đã dạy về Trung Đạo,
con đường trung dung giữa những trạng thái cực đoan.
Mặc dù thật bất
tiện khi nói về những khía cạnh khác của Bát Chính Đạo như là tám cấp bậc, không
nên xem đó là những cấp bậc riêng biệt, phải làm từng chặng. Ngược lại, mỗi cấp
bậc phải được thực tập cùng lúc với những cấp bậc khác, và có lẽ sẽ tốt hơn nếu
ta nhìn nó như tám lằn ranh của một con đường hơn là tám cấp bậc nối tiếp
nhau.
Bước thứ nhất của con đường, hiểu biết đúng, quan trọng nhất là
thấy mọi việc như nó là – hoặc ít nhất, thử làm mọi việc với tính cách không
trốn tránh, hoặc tự lừa dối. Nghĩa là, hiểu biết đúng bắt đầu bằng sự yêu thích
trí tuệ, yêu bản chất tự nhiên của sự hiện hữu, và như thế đấy được coi như là
bước đầu của con đường thực tập; nhưng khi đã đến cuối con đường, sẽ đạt được
tình thương và trí tuệ.
Trong khi Chánh Kiến có thể được xem như sự thấu
hiểu hoàn hảo nơi Phật Pháp, nó dựa vào sự hiểu biết ba đặc điểm chánh yếu trong
thế giới tương đối của vũ trụ, thời gian, hình thể và vật chất. Ba đặc điểm này
có thể tóm tắt như sau:
1. Vô thường: Tất cả mọi thứ trong thế giới
tương đối này luôn thay đổi liên tục.
2. Bất như ý: Trong một mức độ nào
đó của đau khổ và bất như ý dính liền với cuộc sống “có bản ngã”, hoặc liên hệ
tới những giới hạn kinh nghiệm cá nhân trong thế giới tương đối.
3. Vô
ngã: Không có thực thể - không là con người hay bất cứ chúng sanh nào - không sở
hữu một linh hồn hay bản ngã thường hằng, không thay đổi. Mỗi một chúng sanh có
một dòng sinh lực luôn thay đổi, sự thay đổi tùy thuộc vào hiện tượng tinh thần
và vật chất, giống như một dòng sông luôn trôi chảy và không bao giờ đứng yên
một chỗ dù chỉ trong tích tắc.
Như vậy, bản ngã, không phải là một thực
thể tĩnh lặng mà là một dòng thay đổi liên tục. Khái niệm năng động về sự hiện
hữu là một ý nghĩ sâu xa tiêu biểu trong Phật giáo; trong cuộc sống không có bất
cứ vật gì là tĩnh lặng, cuộc sống là một dòng trôi chảy liên tục mà ta cần phải
học để biết cách bơi theo dòng.
Một khái niệm khác của Chánh kiến là
nhận thức rằng vũ trụ có tiến trình của nó với nền tảng nhân và quả, với hành
động và sự phản kháng, liên tục không cố định và nó đều giống nhau trong thế
giới đạo đức, tinh thần và vật chất. Tùy vào hành động tốt mà người tạo tác có
lúc hưởng được sự sung sướng, và có lúc vì hành động xấu ác mà kẻ tạo tác phải
chịu đau khổ.
Các ảnh hưởng tốt hay xấu – nghĩa là, hạnh phúc và đau khổ
là kết quả của những hành động đã tạo tác – thông thường kết quả không theo liền
sau nhân tạo tác; thường có sự chậm trễ trong vấn đề thời gian, kết quả của hạnh
phúc và đau khổ chỉ xuất hiện khi nhân duyên đầy đủ. Kết quả có thể không xuất
hiện trong hiện tại. Và như vậy, cái chết thông thường là một sự thăng bằng về
mặt “hưởng phước”, nếu như quả tốt chưa xuất hiện kịp thời; và đồng thời cũng là
một sự thăng bằng về mặt “chịu khổ”, nếu như đau khổ là kết quả không thể tránh
khỏi.
Sau khi chết, thân thể tan hoại, dĩ nhiên, dòng sinh lực vẫn còn
tiếp tục, không phải trong dạng của một linh hồn bất biến, mà là trong dạng của
dòng năng lực luôn thay đổi. Tức thời sau khi chết, một chúng sinh mới bắt đầu
cuộc sống trong dòng đời; nhưng chúng sinh này không nhất thiết phải là một
người, và trong tích tắc sự đầu thai có thể xảy ra ở một tầng hiện hữu khác. Tuy
vậy, chúng sinh mới hiện hữu đó vẫn phải chịu đựng một ảnh hưởng trực tiếp từ
chúng sinh vừa mới qua đời.
Như vậy, chúng sinh mới này hiện hữu là sự
tiếp tục không ngừng nghỉ của chúng sinh kia, mà dòng đời vừa đứt đoạn. Chúng
sinh mới thừa hưởng phần phước đức còn lại của chúng sinh đã chết, và như vậy,
phần phước đó sẽ mang lại cho chúng sinh mới này sự sung sướng trong tương lai.
Đồng thời, chúng sinh này cũng phải chịu luôn phần ác báo còn lại của kẻ kia, và
như vậy, sẽ phải chịu đựng sự đau khổ nào đó trong tương lai.
Tóm lại,
trong ý nghĩa của sự liên tục, chúng sinh mới giống như chúng sinh đã chết. Cũng
như vậy – chỉ trong ý nghĩa của sự liên tục – một ông già không khác với cậu
thanh niên lúc trẻ, cậu thanh niên không khác với đứa bé con lúc trước, và đứa
bé con không khác với đứa bé mới sanh khi xưa đó. Cá tính của ông già với cậu
thanh niên, với đứa bé con, và đứa trẻ sơ sanh, chỉ là một sự liên tục ; không
có cá tính nào khác.
Tất cả mọi vật trong vũ trụ thay đổi ngày này sang
ngày khác, từ phút này tới phút khác, như vậy một chúng sinh lúc này chỉ khác
với chúng sinh lúc sau chút xíu thôi ; Cá tính duy nhất là sự liên tục. Cũng như
vậy, một chúng sinh được tái sinh thì khác với chúng sinh vừa chết kia; nhưng do
sự liên tục mà cá tính hôm nay vẫn không khác cá tính lúc trước.
Những
lời giảng dạy này là điều căn bản của phật pháp – bản chất thật về bản ngã là
một ảo giác, quy luật nhân quả trong phạm vi đạo đức, và sự tái sinh của những
năng lượng trong đời sống – nhưng không cần mọi người phải chấp nhận bất cứ điều
gì nếu cảm thấy không đúng lý với bản thân. Chấp nhận bất cứ lời giảng dạy nào
cũng không quan trọng; quan trọng là sự cố gắng không ngừng nghỉ để nhận thấy
mọi vật như nó là, không trốn tránh, không tự lừa dối.
Dàn bài ngắn gọn
của bài pháp coi như khá đầy đủ với Chánh kiến dẫn đầu. Bước kế tiếp, suy nghĩ
hoặc mục đích chân chính, giải thoát các khả năng tri thức khỏi những yếu tố xúc
cảm có hại, như tham dục, ác ý, và hành động bạo tàn, làm bất lợi cho những
quyết định sáng suốt, không thiên vị.
Chánh ngữ, Chánh mạng, và Chánh
nghiệp tạo nên một phần của con đường đạo đức, chúng giúp cho những nhiễm ô của
tâm thức bị nằm dưới sự điều khiển và không cho nó trồi lên để tạo thành những
hành động có hại. Tuy vậy, những nhiễm ô này không thể bị tiêu diệt hoàn toàn
chỉ nhờ vào sự đạo đức, và như vậy những bước khác của con đường cần được áp
dụng để tẩy rửa những nhiễm ô của tâm thức một cách sạch sẽ hoàn
toàn.
Bây giờ bước kế tiếp – Chánh tinh tiến – chúng ta bước vào phạm vi
của tâm lý thực tiễn, Chánh tinh tiến trong bài này nghĩa là sự cố gắng của ý
chí. Cũng có nghĩa là, bước thứ sáu trên con đường trau dồi bản thân, luyện tập
ý chí để phòng ngừa và khắc phục những trạng thái tâm thức có thể làm cản trở sự
phát triển tâm linh, và bồi dưỡng cũng như khuyến khích những trạng thái tâm
thức có thể mang lại sự phát triển về tinh thần.
Bước thứ bảy trên đường
cũng là môn tâm lý thực tiễn; bước này gọi là Chánh niệm, và nó bao gồm sự phát
triển tối đa nơi khả năng bình thường của sự chú tâm. Sự phát triển về mặt chú
tâm – sự hiểu biết lan rộng và mạnh mẽ -- tâm thức dần dà có thể phân biệt mọi
vật và thấy rõ mọi vật như nó là.
Hoạt động cơ bản của bước thứ bảy,
Chánh niệm, là phát triển sự chú tâm về bản chất không thực của bản ngã. Tuy
vậy, cần phải liên tục cải thiện khả năng chú tâm bình thường, và như vậy, tâm
thức được trang bị tốt hơn để đối diện với những vấn đề căng thẳng trong sinh
hoạt hằng ngày nơi thế gian.
Phương cách của đức Phật, sự chú tâm bao
gồm sự phát triển về khả năng tập trung, để tạo nên chánh niệm liên tục trong
tất cả những ý nghĩ chợt xuất hiện, tất cả những chữ đã được thốt ra, tất cả
những hành động đã làm, với cái nhìn buông xả, không tham đắm, không thiên vị,
và không mê lầm.
Chánh niệm có nhiều cách áp dụng trong sinh hoạt hằng
ngày. Thí dụ, chánh niệm có thể được sử dụng để có một cái nhìn thấu đáo, sự
hiểu biết rõ ràng, của những động lực nằm sau các hoạt động, và sự hiểu biết rõ
ràng về động lực này là một điều thật quan trọng.
Chánh định, bước cuối
cùng trong tám cấp bậc, trau dồi tâm thức ở những trạng thái cao hơn – đến lúc
hấp thụ mọi thứ trong chánh niệm – những trạng thái tâm thức cao tột này được sử
dụng để thống nhất, thanh tịnh hoá, và làm mạnh mẽ tâm thức để đạt đến sự giải
thoát, sáng suốt.
Khi đạt được giải thoát thì ảo giác về bản ngã, với
những tham đắm, đau khổ cũng được chuyển hoá và bị dập tắt hoàn toàn.
Sự
hiểu biết xuyên suốt là mục đích tối hậu của tất cả các thực tập Phật giáo, và
với sự sáng suốt đó, sự hiểu biết về bản chất thực của đời sống cũng sẽ hiện
diện, tột bậc của sự hiểu biết về Không Duyên Khởi. Không Duyên Khởi là sự dập
tắt bản ngã, không hẳn là không hiện hữu hoặc hủy diệt, bởi vì sự tiêu diệt bản
ngã chỉ là sự tiêu diệt si mê. Mỗi sự miêu tả về Không Duyên Khởi đều thất bại,
bởi vì nó nằm xa hẳn thế giới chữ nghĩa, và ý nghĩ; và cách duy nhất để biết về
Không Duyên Khởi là thực hành Bát Chánh Đạo từ đầu đến cuối.
Như vậy,
đây là nguyên gốc của Phật giáo; đây là Phật giáo của Bát Chánh Đạo, của con
đường đưa đến giải thoát, thoát khỏi bản ngã và đạt đến sự hiểu biết thấu đáo về
thực tại.