Swami Rama (1925 – 1996): Được sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ trong một gia đình
người Bà La Môn, ở một ngôi làng nhỏ có tên là Toli, trong vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Từ nhỏ Ngài đã được giáo dục theo truyền thống Himalayas, là đệ tử của Ngài
Madhavanada Saraswati. Dưới sự hướng dẫn của Sư phụ, Ngài đã đi du hành từ tu
viện này đến tu viện khác và đã được thọ giáo với nhiều vị thánh, minh sư, kể cả
vị đại sư của Ngài, người sống trong một vùng hẻo lánh của Tây Tạng. Sau nhiều
năm tu tập trong các hang động ở Hy Mã Lạp Sơn, theo lời khuyên của sư phụ mình,
Ngài đã đến các nước Tây phương để hoằng pháp, đặc biệt là ở Mỹ và Âu
châu.
Cái chết cũng tự nhiên như sự sống, cũng đầy mầu nhiệm và huyền
diệu như sự sống.
Chúng ta cần hiểu về cái Chết để biết Sống, ngược lại
ta phải thông suốt về sự Sống, để hiểu về cái Chết. Chết không phải là sự cáo
chung của cuộc đời, nó chỉ là sự gián đoạn của một dòng chảy. Cái Chết giống như
là một bến đỗ, một trạm dừng, một nơi chúng ta xuống tàu để chuẩn bị cho một
chuyến đi khác.
Nói thế không phải để làm giảm ý nghĩa của vấn đề sinh
tử. Chúng ta đã sống như thế nào, nói cách khác đi là sự chọn lựa chuyến tàu để
chúng ta bước chân lên, sẽ quyết định tâm trạng của chúng ta khi tới bến, sẽ là
hành trang cho chuyến đi sắp tới của chúng ta. Có thể chúng ta đã chọn một con
tàu bẩn thỉu, cũ kỹ, thay vì một con tàu sạch bóng, tối tân. Có thể chúng ta đã
chọn một chuyến tàu đầy thú vui cám dỗ, với các cô gái nhảy, các trò chơi, với
bao mời mọc của tiền tài và danh vọng. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao khi phải rời
chuyến tàu đó, nếu như ta đã bị dính mắc vào các thú vui hưởng thụ sắc dục. Mặt
khác có thể chúng ta đã chọn một chuyến tàu chở ta qua bao nhiêu cảnh thiên
nhiên đẹp đẽ bên đường, một chuyến tàu mà khi đỗ bến, chúng ta khoan khoái đứng
dậy từ giã nó không quyến luyến.
Đừng dính mắc
Chỉ có thân xác,
cái áo che cho tâm thức chúng ta khi sống ở đời, là bị hủy hoại. Tâm thức ta
không hề bị hủy hoại.
Làm sao không buồn khi chúng ta phải mất đi những
gì mình yêu thích ở cõi đời. Khi người thân ta mất, hãy thương xót, nhưng đừng
để những đau khổ về sự mất mát kéo dài đến suốt cuộc đời. Quá đau khổ là u mê.
Vì sự mất mát, cái chết là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, ở nhiều tôn giáo,
nhiều tập quán văn hóa đã đề ra thời gian dành cho tang chế. Thí dụ, người Do
Thái tỏ lòng thương tiếc người chết bằng cách ở trong nhà suốt bảy ngày, họ
không ra đường trừ khi có việc khẩn cấp. Họ không cạo râu, không cắt tóc hay mặc
đồ mới. Họ còn không được ngồi trên ghế hay mang giày. Trong bảy ngày này, họ
chiêm nghiệm về sự đau khổ của mình.
Chúng ta đau khổ vì sự ra đi của
người thân và lo sợ cho chính cái chết của mình. Kiếp con người là một vòng luân
hồi của đến và đi, của sinh và tử. Sự mất mát thân xác không phải là tất cả. Tâm
vẫn tồn tại, vì thế đau khổ kéo dài quá hạn định là u mê. Nếu ta quá coi trọng
sự mất mát, thì cái chết là một nỗi ám ảnh lớn lao, khủng khiếp đối với ta. Vì
ta nghĩ cái Chết là sự tận cùng của tất cả. Là nỗi khổ đau khôn tả. Nhưng nếu
chúng ta biết buông bỏ những gì đã qua, đã mất, dầu đó là của cải vật chất, hay
thân bằng, quyến thuộc, và chỉ chú trọng vào sự trường tồn của Tâm thức thì cái
Chết không còn đáng sợ nữa. Đó chỉ là một ngã rẽ, một sự thay áo. Hãy thương
xót, nhưng chớ kéo dài quá lâu nỗi đau khổ. Lời khuyên này có thể áp dụng cho
tất cả mọi thứ mất mát khác: tình yêu, hạnh phúc gia đình, công việc làm, bạn
bè, nhà cửa... Hãy đau khổ, nhưng rồi bước tới.
Sợ chết, nổi đau khổ vì
chết chóc gây ra do ta bám víu vào những thứ bên ngoài chúng ta như thân xác,
danh vọng. Ta luôn tìm cách sở hữu của cải, tình cảm... trong đời như một cách
để phủ nhận cái Chết, để trốn tránh phải đối mặt với thực tại là cuộc đời này
chỉ tạm bợ. Sự dính mắc, cái ý nghỉ là chúng ta không thể sống thiếu những thứ
đó càng làm cho cái Chết trở nên thêm khủng khiếp. Trong khi tính cách vô thường
sẵn có trong vạn vật, trong mọi tương quan tình cảm càng làm cho sự thay đổi,
mất mát là điều không thể tránh khỏi. Sự thay đổi, sự hủy hoại, mất mát... không
làm con người thức tỉnh, trái lại còn làm họ thêm sợ. Họ sợ sự mất mát của thân
xác, tư tưởng, của cải, tương quan tình cảm. Chìa khóa để giải thoát khỏi những
khổ đau này là buông bỏ mọi dính mắc.
Thuyết Tứ Diệu Đế của Đức Phật đã
dạy chúng ta rằng chính lòng ham muốn khiến chúng ta sợ hãi, khổ đau, người
không ham muốn sẽ không đau khổ, bớt sợ hãi.
Bám Víu Vào Ngoại Cảnh
Từ khi còn nhỏ,
chúng ta đã được huân tập là Hạnh phúc được đo lường bằng những của cải, những
tương quan tình cảm mà ta có thể sở hữu được. Nên khi vật chất bị đánh mất, liên
hệ tình cảm thay đổi, con người trở nên khổ đau. Chúng ta đã gắn chặt mình với
những hình ảnh, tình cảm nào đó, nên chúng ta đau khổ khi mất chúng. Chúng ta
nghĩ thân xác này là “ta” nên ta đau đớn khi nó bịnh hoạn, già nua hoặc khi nhìn
người khác bịnh hoạn, già nua, chúng ta cũng thấy đau khổ.
Đau khổ là dấu
hiệu của sự mất thăng bằng trong đời sống. Sự đau khổ khi mất mát của cải vật
chất, thay đổi tình cảm, hư hoại cơ thể, nói với ta điều gì? Có thể đơn giản đó
là bản chất của cuộc đời. Chúng ta có mặt ở cõi đời, đấu tranh, giành giựt để
đạt được những gì ta nghĩ là ta cần có, và đau khổ trên con đường tìm kiếm
chúng. Hết chuyện. Nhưng thật vô nghĩa nếu cuộc đời chỉ có thế. Nếu bạn cảm thấy
đau ở chân, cái đau báo cho bạn biết chân bạn bị nhiễm trùng, bạn có chỉ rùng
vai rồi nói: "Ồ, đời là vậy mà. Có chân, thì phải đau". Nếu thế, sự nhiễm trùng
sẽ lan tràn cơ thể, làm chúng ta mất mạng sống. Như thế thật vô lý. Con người sẽ
biết cái đau đã báo hiệu một bộ phận nào đó bị thương tổn, cần được chữa trị.
Con người sẽ biết cái đau là một vấn đề cần được giải quyết. Cũng thế, những đau
khổ trong cuộc đời có lẽ là dấu hiệu cảnh báo với chúng ta rằng cách chúng ta
cảm nhận về của cải vật chất, liên hệ tình cảm, tư duy, thân thể... không
đúng.
Chúng ta bị lệ thuộc vào của cải vật chất, con người, tình cảm,
thân thể. Chúng ta tưởng chúng chính là ta, và bám víu vào chúng. Khi chúng bị
hư hoại, hay mất mát, chúng ta cảm thấy đau khổ. Chính sự bám víu này, cùng với
u mê, là nguyên do đưa đến sự sợ chết. Càng bám víu, ta càng sợ chết. Ai biết
buông xả - biết rằng không có gì thuộc về mình, biết rằng thân chúng ta chỉ là
một phương tiện - người ấy được giải thoát khỏi sự sợ hãi.
Thế nào là sự
bám víu hay đồng hóa ta với điều gì đó? Bám víu có nghĩa là chúng ta nghĩ rằng
chúng ta cần có điều gì đó để hiện hữu. Đó là sự chấp ngã. Nói cách khác là ta
nghĩ, "Tôi là người quan trọng, nên tôi cần có chiếc xe này. Chiếc xe này là của
tôi, làm chủ chiếc xe này chứng tỏ là tôi giàu có, thành công ở đời, chiếc xe
này giúp tôi xác định bản ngã của mình". Hay "Tôi cần người phụ nữ/người đàn ông
này ở bên tôi. Không có người đó, tôi sẽ không thể có hạnh phúc với ai khác. Nếu
người đó bỏ tôi, tôi sẽ chết mất, cuộc đời tôi sẽ mất hết ý nghĩa". Người ta còn
bám víu vào cả một tư duy nào đó. Thí dụ, trong văn hóa Mỹ, từ nhỏ người ta đã
giáo dục con cái là phải có thứ này, thứ kia mới là có một cuộc sống xứng đáng,
một cuộc sống thành công. Mẫu cuộc đời đó là sinh ra, lớn lên có một gia đình
hạnh phúc, sống trong những ngôi nhà gạch trắng, bao bọc bởi những vòng rào bằng
hoa, có những đứa con thành đạt. Ước vọng của mọi người là làm sao để tậu được
những căn nhà rộng lớn, có được hai chiếc xe, có được căn nhà thứ hai, thứ ba ở
những nơi nghỉ dưỡng (resort), và được hưu trí sớm. Những ước vọng này đã được
xã hội mớm cho họ, gầy mầm trong họ, và khi họ không đạt được những điều này, họ
trở nên rất khốn khổ. Họ nghĩ là cuộc đời đã bạc đãi họ.
Đó là do chúng
ta đã đồng hóa mình với ngoại vật. Ta đã tự vẽ ra mình, tự đồng hóa mình với
những mẫu người sống trong các ngôi nhà sạch sẽ, sang trọng và có một cuộc sống
hoàn hảo. Ta nghĩ đó mới chính là ta. Nhưng sự thật không phải thế. Đừng bám víu
vào các hình ảnh này. Hãy sống như cuộc đời dẫn dắt, đưa đẩy chúng ta với những
thăng trầm của nó.
Cũng thế, khi sân si, chúng ta nghĩ, "Tôi giận". Nói
rằng, "Tôi giận" là tự đồng hóa mình với tình cảm giận, là nghĩ rằng tình cảm đó
là chúng ta. Tình cảm không phải là chúng ta. Là con người, chúng ta có khả năng
giận dữ, có cảm thọ giận nhưng tất cả các cảm thọ đó không phải là chúng ta.
Cũng thế, thân chúng ta không phải là chúng ta. Chúng ta có thân. Chúng chỉ là
phương tiện. Ta nói: “Tôi cao thước sáu. Tóc đen. Da trắng". Nhưng đó không phải
là chúng ta. Vậy mà có ai chê gì về dáng vẻ bề ngoài của ta, thì ta thấy đau
khổ. Chúng ta hỏang sợ khi nhận ra cơ thể của chúng ta trở nên già nua, chậm
chạp. Hầu hết chúng ta đều bám víu vào thân, đồng hóa thân này với ta. Do đó ta
trở nên sợ hãi khi nghĩ đến mất thân, tức là mất đi cá thể và sự hiện hữu của
mình. Bao giờ còn chưa thức tỉnh, chúng ta còn sợ hãi cái chết. Chúng ta còn là
nô lệ của sự sợ hãi.
Cũng thế, ai càng bám víu vào của cải vật chất, nhà
cửa, quần áo, nữ trang, tiền bạc, người đó càng sợ mất chúng. Vì họ tự đồng hóa
với chúng, nghĩ rằng chúng mang đến cho họ sự hãnh diện, ý nghỉa trong cuộc
sống. Lại có người bám víu vào người khác. Họ đồng hóa tình cảm gắn bó với họ.
Họ sợ cái chết sẽ cướp mất đi tình cảm đó. Họ sợ cái chết của người họ thương
cũng vì lý do đó.
Để giải thoát khỏi những khổ đau, ta đừng bám víu vào
thân, của cái vật chất hay người khác. Ta cần phải nhớ rõ điều này. Việc giảm
bớt dần, rồi đi đến chỗ dứt bỏ hẳn những bám víu đó, không có nghĩa là chúng ta
phải quay lưng lại với cuộc đời, từ bỏ hết những niềm vui trong cuộc sống, làm
cho cuộc đời chúng ta nghèo nàn, mất ý nghĩa sống. Trái lại là khác. Khi không
vướng mắc, bám víu vào thứ gì, cuộc đời ta sẽ thêm ý nghĩa, sẽ hạnh phúc hơn. Ta
sẽ biết cho, biết nhận và cởi mở hơn với tất cả. Bám víu có nghĩa là nắm chặt,
giữ lấy, không buông thả. Nên khi cái Chết đến, tất cả những sự nắm giữ sẽ bị
giằng ra khỏi tay ta. Càng nắm chặt, sự giằng co, xé rời càng dữ dội. Nỗi đau
càng bội phần. Nếu chúng ta đi qua cuộc đời với hai bàn tay mở rộng, không nắm
giữ, thì dầu cái Chết có đến, chúng ta cũng sẽ ung dung tự tại, không luyến
tiếc, níu kéo gì.
Tuy nhiên, không phải tự dưng một buổi sáng thức dậy là
chúng ta có thể buông xả hết mọi vướng mắc. Cần phải tu tập cả đời. Cần phải
thức tỉnh từng giây phút mới làm được việc đó vì có biết bao quyến rũ, cám dỗ
trong cuộc đời để chúng ta lại rơi vào sự dính mắc.
Ngã Vào Đời
Chết có phải là sự tận
cùng của cuộc đời? Có phải tử thần là ma vương nấp trong bóng tối, rình mò để
bất chợp phủ chụp chúng ta không báo trước?
Theo triết lý Đông phương,
Chết không phải là sự tận cùng của đời sống. Cơ thể ta ngưng hoạt động, các
duyên hợp (trong không gian và thời gian) tan rã. Nhưng tâm thức không mất. Hiểu
như thế thì cái Chết không quá đen tối, khủng khiếp. Cái Chết cũng tự nhiên như
sự Sống, cũng diệu kỳ và tốt đẹp như nhau. Tử cũng như Sinh đều dẫn đến sự sống,
sự phát triển. Nhìn dưới khía cạnh đó, con người do duyên hợp (trong không gian
và thời gian) vì một nhân duyên nào đó. Giống như khi trồng trọt ngoài đồng,
phải đợi đúng lúc, đúng nơi để gieo mầm, cấy hạt. Nhưng khi xong việc rồi, không
có lý do gì để nấn ná ngoài ruộng. Rồi đến giai đoạn chờ đợi cho hạt nẩy mầm,
lớn lên. Lúc lúa đã chín, cây đã cao, ta lại ra đồng vì một mục đích khác, ở một
thời điểm khác. Cuộc đời con người cũng thế. Chúng ta sinh ra để sửa soạn, bón
phân cho một mảnh đất vào một thời điểm nào đó, rồi lại ra đi, chờ khi đến mùa
gặt hái lại trở về.
Người ta có thể nói về cuộc đời con người như một căn
duyên, một năng lực, một kết hợp của không gian, thời gian. Nguồn năng lực đó
không thể bị hủy diệt, nó chỉ có thể được luân chuyển. Con người đến ở một
khoảng thời gian, không gian nào đó, rồi lại ra đi, đến một nơi khác. Triết lý
phương Đông cho rằng nghiệp lực của con người dẩn dắt họ đi từ nơi này đến nơi
khác, vì mục đích này hay mục đích khác, trong khoảng thời gian này hay khoảng
thời gian khác.
Dù ít, dù nhiều, Chết vẫn là mối đe dọa của chúng ta.
Giây phút từ giã cuộc đời là giây phút trọng đại, khi con người chiếu rọi lại
tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời mình trong giây phút cuối: tất cả tình
cảm, kỷ niệm, việc làm của cả một đơi người được cô đọng lại, tạo thành một lực
dẫn dắt ta đi. Năng lực đó mạnh mẽ đến nỗi nó có thể tạo hình cho cuộc đời mới
của ta. Chúng ta đã sống như thế nào cho tới giờ trước khi ra đi rất quan
trọng.
Thử so sánh cái chết và giấc ngủ. Suốt ngày ta làm gì sẽ tác động
đến giấc ngủ của ta. Nếu ta lên giường ngủ với bao hối tiếc, sợ hãi, bất mãn...
thì giấc ngủ của ta sẽ bất ổn, và chắc chắn chúng sẽ ảnh hưởng đến cả ngày hôm
sau. Những ước vọng chưa được thỏa mãn của ngày hôm trước sẽ ám ảnh ngày kế
tiếp. Hay đúng hơn một ngày mới đã bị đánh mất vì những hồi tưởng của ngày vừa
qua.
Trái lại nếu ta đi vào giấc ngủ với một tấm lòng thoải mái, tự tại,
thì ngày hôm sau sẽ là một ngày mới đón chờ chúng ta. Hãy sống trọn vẹn cho ngày
hôm nay và đừng vướng mắc. Ngày mai là chuyện của ngày mai. Mỗi ngày có nhiệm vụ
và mục đích riêng của nó. Cũng vậy, con người đã sống một cuộc đời như thế nào
thì sẽ ảnh hưởng đến giây phút lâm chung của họ thế ấy. Nếu cuộc đời một người
chỉ toàn sống bằng sợ hãi, ám ảnh thì giây phút lâm chung sự sợ hãi còn tăng gấp
vạn lần. Một người đã sống cuộc sống vô lề lối, thì cái chết cũng đến một cách
vô lề lối. Một người không làm chủ đời mình, sống không có mục đích thì cái chết
cũng không thể lường trước được.
Trái lại, một người đã sống cuộc đời nề
nếp, kỷ luật, không bám víu vào gì, sẽ ra đi một cách thong thả. Như một người
khách biết đã đến lúc phải chia tay. Mục đích của cuộc đời họ đã đạt. Họ thản
nhiên ra đi, biết rằng thực tại ở bên trong họ vĩnh hằng, không hề bị ảnh hưởng
hay dao động bởi người khác, bởi vật chất của cuộc đời mà họ sắp giã
từ.
Sống hay Chết cũng nằm trên vòng chuyển của bánh xe luân hồi. Hết
vòng này lại đến vòng kia, nối tiếp nhau, không ngừng...