Linda R. Cutts là giảng sư về Thiền, hướng dẩn việc tu Thiền ở Green Gulch Farm,
ở California. Bà tu theo dòng Thiền của Thiền Sư Shynryu Suzuki.
Khi tôi
bắt đầu tu tập, khoảng hai mươi tám năm về trước, tôi đang ở trong trạng thái
trầm uất, đau đớn, tưởng như không có gì cứu được tôi. Có lúc tôi đứng trước
cánh cổng mạ vàng, chạm trổ công phu của Ghiberti (ND: Ghiberti Lorenzo, nhà
điêu khắc nổi tiếng của Ý), ở Florence, được gọi đó là The Gates Of Haven (Cổng
Thiên Ðàng). Trong các lớp học về Mỹ thuật, tôi đã được nghe nhiều về chúng, đã
mơ ước được nhìn thấy tận mắt. Vậy mà giờ chúng đang ở trước mắt tôi, nhưng hoàn
toàn không gây được cảm xúc gì trong tôi. Tôi nhớ đã tự trách mình: "Ngốc quá,
đây là một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại. Hãy quan sát! Hãy ngắm nhìn!" Nhưng không
chỉ có cái đầu của tôi đóng băng mà cả con người tôi dường như cũng tê
dại.
Ðã có lúc trong cuộc sống, tôi phải sống như một tảng băng để tự cứu
lấy mình. Tôi quyết định khiến các cảm giác tôi đông lạnh trước những nỗi đau
khổ của mình.
Tôi sụp đổ tinh thần là do phản ứng của gia đình khi biết
tôi mang thai vào năm đầu tiên bước chân vào đại học. Ðó là năm 1966, và đó là
một tấn thảm kịch cho cả tôi và gia đình tôi. Tôi tự vặn tắt mọi cảm giác, để
không còn ai có thể làm cho tôi đau đớn thêm. Tôi không khóc nữa trước mặt những
người thân của tôi.
Chính sự chuyển đổi trong cơ thể tôi - một cách bí
mật và nhục nhã - làm tôi đau đớn. Không còn cài được váy, chiếc quần trượt
tuyết của tôi phụt rách khi tôi khom người. Và sự nôn ói. Không còn gì là tốt
đẹp nữa. Thế giới không còn là chỗ dung thân an toàn, một mái nhà cho tôi nữa.
Và thân thể xinh đẹp của tôi cũng biến mất. Cái thân thể đã từng được người thân
của tôi thương yêu, vỗ về, giờ lại là mục tiêu của sự chê bai, ghét
bỏ.
Mẹ dẫn tôi đi mua đồ mặc bầu ở tận New York, thật xa các cửa hàng
quen thuộc ở thành phố tôi ở, lẩn tránh một gặp gỡ tình cờ nào đó với những
người quen biết.
Rồi tôi được gửi đi đến một nơi rất xa, qua bao miền
đất nước, đến tá túc với một cặp vợ chồng chịu chứa chấp những cô gái Do Thái
chửa hoang. Mẹ tôi ra về sau khi đã nhìn lướt qua ngôi nhà nơi tôi sẽ ở trong
sáu tháng. Vậy là tôi chỉ có một mình nơi xa lạ này. Mẹ không kể gì với tôi về
kinh nghiệm sinh nở của bà.
Mặc bao khó khăn, mỗi tháng qua, tôi càng cảm
thấy gắn bó sâu đậm hơn với đứa con trong bụng mình. Khi nó bắt đầu máy mó, tôi
cảm thấy hạnh phúc bừng lên như một ngọn lửa trong cái lạnh của khổ
đau.
Tôi tự chuẩn bị bằng cách đọc sách. Có một thư viện nhỏ gần nhà, và
mổi tuần vài chuyến tôi lại đến đó mượn hàng đống sách về sinh sản. Năm ngày sau
khi sinh, người ta mang con tôi đi cho.
Ngay buổi tối tôi trở về gia
đình, không ai nhắc đến chuyện ấy nữa. Tôi trở về nhà sau khi sinh con và bị
tước đi quyền làm mẹ, nhưng câu đầu tiên cha mẹ tôi nói là: "Con định chọn môn
gì trong khóa tới?"
Tôi trở lại học đường, nhưng cảm thấy mình già dặn so
với các bạn gái quanh tôi. Cơ thể tôi đã đổi thay; tôi đã có những vết rạn nứt.
Ở tuổi mới lớn đó, lần đầu tôi biết về tính cách vô thường của
thân.
Trong tình trạng đó, tôi được biết về thiền. Tôi sẽ không bao giờ
quên ơn những người thầy đã dạy cho tôi biết Pháp. Sự tu tập đối với tôi như một
sự tỉnh thức. Chánh niệm là tỉnh thức. Như một người đã ngủ quên, tôi được lay
dậy, được chỉ đường để tỉnh lại. Những điều rất đơn giản như: giữ thẳng sống
lưng, đếm hơi thở, ngồi nhẹ nhàng... Bằng những điều thực tập nhỏ nhặt như thế,
tôi đã bắt đầu tỉnh thức.
Lần đầu tiên bước chân đến trung tâm Thiền, tôi
rất lo âu. Sau bửa ăn, tôi được giao nhiệm vụ cất dẹp muối mè. Người ta bảo:
"Nè, làm cái này đi. Em sẽ thích đó". Có mấy cái tô đựng muối mè với những cái
muỗng nhỏ xíu xiu, một bàn chải cũng đặc biệt nhỏ và một hũ to đựng muối mè. Bổn
phận của tôi là dùng những cái muỗng nhỏ đó để xúc muối mè trong tô bỏ trở vào
hũ lớn, dùng bàn chải quét trong lòng tô cho sạch, rồi xếp tô chồng lên nhau,
từng cái một. Thật hạnh phúc được làm công việc nhỏ mọn đó. Không có gì đòi hỏi
phải suy nghĩ, chỉ cần xúc từng muỗng, quét, quét, rồi để xuống. Tôi có cảm
tưởng như mình đang làm những công việc này với tất cả sự cẩn trọng, như thể
đang chăm sóc từng hành động của tôi, và như thế cũng có nghĩa là tôi đang chăm
sóc chính tôi.
Ðối với tôi được làm công việc nhỏ mọn đó với tất cả lòng
chân thành là một liệu pháp giúp tôi trở về với cuộc sống. Ðã bao nhiêu năm nay,
tôi chỉ hành động để được khen thưởng, được chấp nhận, để thu nhỏ mình lại tránh
bị để ý: đó từng là thế giới của tôi. Ðó là ngày 2 tháng 1, năm 1971. Tôi sẽ
không bao giờ quên ngày đó. Tôi được yêu cầu làm một việc vẹn toàn, không có
điều kiện, tôi coi đó là một hành động từ bi. Người bảo tôi làm việc đó hẳn đã
nhìn thấy nổi đau của tôi và nói: "Ðây - em sẽ yêu thích việc này".
Thực
tập chánh niệm giúp ta bỏ được tâm phán đoán, phê bình. Chánh niệm giúp ta chú
tâm vào đối tượng, luôn ở với nó, trong khi thế giới chung quanh ta, vạn vật vẫn
xoay vần. Ta có thể trụ ở hiện tại, mà vẫn ý thức được sự chuyển đổi, vô thường
của vạn vật. Ở thời điểm đó trong cuộc đời, tôi đã rất may mắn được học thiền,
tọa thiền, thực tập chánh niệm, chú tâm đến hơi thở, đứng ngồi trong sự tỉnh
thức. Với thời gian, những năm tháng đông lạnh dường như đã bốc hơi, sự tê dại
trong tâm hồn tôi đã biến mất. Sức sống như những sợi dây leo xuyên mình qua bức
tường trở ngại cho đến khi nở rộ ra từng chùm lá xanh.
Nhưng quá trình
trở về với thân không phải là bằng phẳng. Những năm sống ở Thiền viện Tassajara
trên núi, tôi đã không thể ngồi yên khi tọa thiền. Trong thiền đường, tôi nhích
bên này, bên kia bồ đoàn không ngừng, đến nỗi tôi phải bám chặt lấy bồ đoàn, như
thể đang ngồi trên chiếc chiếu thần lơ lửng, trong khi mọi người chung quanh đều
ngồi yên tĩnh. May mà tiếng chuông đánh lên, tôi đứng dậy sửa lại tọa cụ, đi ra
ngoài, làm công việc của mình thì mọi việc dường như bình thường trở lại. Nhưng
cứ hễ bước vào thiền đường, tôi như một mụ đàn bà lên cơn điên. Không kiềm chế
được tôi đụng người này, người kia, lấn qua lằn ranh. Rồi ding, cúi lạy đi ra,
và trở lại bình thường. Tại sao vậy? Câu hỏi đó là công án của tôi trong suốt
mười năm. Trong mười năm, tôi ngồi với những cử động không cưỡng chế được. Lúc
đầu chúng phóng túng tự tác, nhưng dần dần các cử động thu hẹp lại, bớt lại dần
cho đến ngày tôi có thể ngồi yên.
Bây giờ tôi hiểu mười năm đó là thời
gian cơ thể đông cứng của tôi cần có để vỡ ra. Những cử động không kiềm chế là
biểu hiện của những khổ thọ tôi bưng bít, chôn kín trong lòng. Những nỗi đau nơi
thân tâm đòi hỏi tôi phải chú tâm đến chúng, và quậy phá tôi cho đến lúc tôi
phải nhận diện chúng. Dần dần tôi đã để tâm đến chúng, chấp nhận sự có mặt của
chúng trong tôi; các khổ thọ đã đi xuyên qua tôi, phá vỡ bức tường đông
cứng.
Hậu truyện: Vài năm trước đây tôi nhận được một cú điện thoại từ
một cán sự xã hội ở Philadelphia. Tôi bàng hoàng - điều này chỉ có thể là.... Ðã
nhiều năm qua, tôi cố công tìm đứa con trai đã thất lạc của tôi, và đã để lại
địa chỉ, điện thoại để khi cần người ta sẽ liên lạc với tôi. Người cán sự xã
hội, sau khi chắc chắn tôi là người bà muốn tìm, nói: "Con trai của bà hiện có
mặt trong văn phòng tôi, nó đã trưởng thành!" Rồi bà chuyển điện thoại lại cho
con tôi.
"Có thật là con đó không? Con tên là gì?", tôi hỏi. Hai chúng
tôi nói chuyện gần tiếng đồng hồ, và rồi hẹn ngày gặp mặt.
Thật vui mừng
và sung sướng khi biết rằng con tôi đã sống sót và được nuôi dưỡng nên người.
Con tôi còn sống! Vết thương tôi vẫn mang trong lòng đã lành miệng. Một lần nữa,
tôi thực sự được sống!