Bác sĩ Akong Tulku Rinpoche là một thiền sư đạo hạnh của dòng Karma Kagyu, Phật 
giáo Tây Tạng. Ngài đã đến phương Tây vào 1963, và cùng với Chogyam Trungpa 
Rinpoche, thành lập nên Trung tâm Thiền Tây Tạng Kagyu Samye Ling ở Scotland (Tô 
Cách Lan), một trung tâm Thiền Tây Tạng lâu đời nhất ở phương Tây. Ngài hướng 
dẫn việc tu tập ở Samye Ling, và là người sáng lập ra các trung tâm tu học khác 
ở Âu, Á và Phi châu.  Ngài cũng là một bác sĩ tốt nghiệp về y học dân tộc Tây 
Tạng, và là nhà lãnh đạo của nhiều tổ chức từ thiện.
Khi chúng ta đi tìm 
hạnh phúc ở bên ngoài, đó là một sai lầm. Ta có thể tìm đến bao điều mới lạ để 
làm giàu thêm kinh nghiệm sống của mình, ngay cả đi du lịch khắp nơi trên thế 
giới, nhưng rồi ta vẫn nhìn mọi việc bằng con mắt cũ của mình. Chính tư duy và 
cảm thọ của chúng ta tạo nên cái nhìn về thế giới ta đang sống.
Khi ta cố 
gắng thay đổi thế giới theo cái nhìn hay sự mong mỏi của riêng mình, thì chắc 
chắn là ta sẽ thất bại. Nếu trời đang mưa, ta không thể bắt trời nắng chỉ bằng 
ao ước; nhưng điều ta có thể làm được là nhìn lại mình, để xem cái gì trong ta 
khiến ta cảm thấy khó chịu vì mưa. Ðiều đó không có nghĩa là ta phải thay đổi cá 
tính của mình - chúng ta đã có cá tính rồi. Nói một cách chính xác, cái chúng ta 
cần là một tấm gương, soi cho ta biết ta thực sự là ai, và ta có thể sửa đổi như 
thế nào để được tốt hơn.
Lâu nay, chúng ta có khuynh hướng tạo cho mình 
nhiều khuôn mặt (mặt nạ). Mỗi khuôn mặt cho một hoàn cảnh khác nhau, nhưng chúng 
ta chưa bao giờ tự soi gương mặt thật của mình, có thể vì quá cận ảnh thì khó 
nhìn cho rõ. Ngược lại chúng ta hay nhìn người chung quanh, và khi nhìn thấy một 
gương mặt đẹp đẽ nào đó, ta hình dung ra mình cũng như thế.
Tuy nhiên, 
mặt nạ của ta cũng có lúc bị rơi xuống, hay ta quên mang nó lên, lúc đó ta mới 
thoáng thấy hình dáng thực sự của nó ra sao. Thường thì sự thật quá đau lòng đến 
nỗi ta không thể chịu đựng được. Ta vội vã che đậy nó lại. Vì chúng ta đã quen 
thay đổi mọi thứ đến nỗi ta không thể chấp nhận chính bản thân. Trong lúc đó, 
dưới tấm mặt nạ, gương mặt thật của ta đang thối rữa vì thiếu không khí, ánh 
sáng, vì chúng ta không bao giờ nghĩ đến việc lau chùi nó cho sạch 
sẽ. 
Bề ngoài ta có vẻ như là một người tốt, nhưng chính con người bên 
dưới chiếc mặt nạ mới cần được thanh tịnh hóa. Nếu thật sự tâm ta trong sáng, 
thì thật tốt cho những người ở quanh ta. Tuy nhiên, giả bộ tốt bên ngoài, mà bên 
trong xấu xa, thì không ích lợi gì cho bản thân ta và cho kẻ khác. 
Ðằng 
sau tấm mặt nạ là con người mà ta cần phải hiểu và tu sửa. Tất cả chúng ta đều 
mang một tên gọi là Tôi nhưng thật ra ta không hiểu mình là ai. Khi ta cho ai 
một thứ gì, dầu là một mẩu bánh mì nhỏ, là ta đã nghĩ mình quá tốt, quá hữu ích, 
đến nỗi ta cứ nhớ mãi đến hành động đó một thời gian dài. Ngược lại, nếu ta làm 
điều gì xấu, ích kỷ, ta cố gắng quên nó ngay lập tức. Chúng ta có khuynh hướng 
tạo nên một hình ảnh giả tạo về con người mình để tự an ủi bản thân. Hành động 
tự lừa dối mình rất khó kiểm soát - đó là lý do tại sao ta cần đến cái gương 
soi.
Ở Tây Tạng, có một vị đại sư rất nổi tiếng, Ngài Lodro Thaye Jamgon 
Kongtrul Rinpoche, đã nói về vấn đề này như sau: "Khi tôi nhìn các vị truyền 
giáo, tôi thấy bên ngoài họ có thể ăn mặc lịch sự, nói năng hoạt bát, nhưng khi 
tôi nhìn vào tâm họ, họ giống như những con rắn độc. Mỗi khi họ gặp hoàn cảnh 
khó khăn, hay trở ngại, lúc đó tâm thực sự của họ mới hiện ra. Giống như các con 
rắn độc sẽ cắn, dầu bên ngoài ta thấy nó rất điềm tĩnh, họ cũng sẽ hành động như 
thế nếu có điều gì đó cản trở, đe dọa họ".
Ðiều đó, dĩ nhiên không có 
nghĩa, hễ rắn là xấu; rắn có khả năng để trở thành xấu hay tốt, nhưng vì lòng sợ 
hãi, ghen ghét hay u mê, nó có thể trở nên nguy hiểm khi nó cảm thấy bị đe dọa. 
Cũng thế, khi chúng ta nhìn thấy cái xấu trong ta, do vô minh tạo nên, chúng ta 
có thể và phải sửa đổi nó thành trí tuệ. Khi chúng ta có thể quay vào bên trong 
để tự soi tâm mình, và thanh tịnh hóa tâm, là ta đã tìm được con đường đạo, và 
tất cả mọi hoàn cảnh bên ngoài tự nhiên trở thành dễ dàng để ta ứng phó bằng 
những phương cách tích cực và hữu hiệu.
Ðiều quan trọng là ta phải có 
thái độ minh bạch đối với những gì ta nhìn thấy trong gương. Chỉ nhìn thấy những 
mặt xấu thì cũng tai hại và vô ích như chỉ nhìn thấy những mặt tốt đẹp của ta. 
Chỉ nghiêng về những mặt tiêu cực của cá tính có thể dẫn đến trạng thái trầm 
cảm, tuyệt vọng nặng nề. Chúng ta có thể quan sát mình trong gương mà không kết 
án những gì ta thấy hay muốn đập vỡ cả gương soi. Ngược lại, ngó lơ hay che giấu 
những mặt xấu của ta, chỉ làm cho chúng thêm sức mạnh, dẫn đến những dồn nén bên 
trong, để rồi một ngày nào đó nó vỡ tung.
Ngày nay phần lớn nhân loại đều 
phẫn nộ trước vũ khí hạt nhân, trong khi đó có một loại vũ khí hạt nhân khác lúc 
nào cũng hiện hữu trong tâm ta. Mỗi ngày, bản ngã ta tạo nên tự ái, ganh tỵ, sân 
hận, ham muốn, căm hờn, dẫn đến sợ hãi và xung đột ở mọi mặt, làm hại cho bản 
thân và cho cả tha nhân. Ðể vô hiệu hóa vũ khí hạt nhân hay các phản ứng của nó, 
không thể chỉ việc đem chôn giấu nó và ước muốn nó sẽ biến mất đi. Cũng thế, để 
dập tắt những động lực xấu xa trong ta, ta phải tháo gỡ, làm tiêu trừ chúng với 
sự cẩn trọng và khéo léo, bằng những phương tiện của lòng từ và tình thương. 
Công việc khó khăn này cần được làm với lòng kiên nhẫn và thái độ không bám 
víu.
Những gì chúng ta đã học được bằng cách nhìn vào gương có thể rất 
hữu ích trên con đường tu đạo, nhưng trước hết chúng ta phải biến chúng thành 
một phần trong kinh nghiệm sống của ta, chứ không phải là một cái gì riêng rẽ. 
Vì nếu ta không thực sự hòa nhập trong trí tuệ và tình thương yêu vừa được khơi 
dậy, thì cũng giống như chúng ta vừa mang một chiếc mặt nạ mới.
Nên nhớ, 
tất cả những khám phá của chúng ta phải được áp dụng vào thực tế. Không ích lợi 
chi nếu ta bỏ ra một tiếng đồng hồ ngồi suy gẫm về việc buông bỏ lòng ghen ghét, 
nhưng khi vừa hết giờ ngồi thiền, thì ta lại để bị lôi kéo vào những tình cảm 
ghen ghét thì thật hoài công. Những gì ta đã suy gẫm phải được áp dụng vào đời 
sống hằng ngày, vào những hoàn cảnh ta phải đối mặt trong cuộc đời.
Thêm 
nữa cho dầu ta có thể học hỏi, sưu tầm rất nhiều Pháp, với tất cả lòng chân 
thành, nhưng nếu chúng không liên hệ hay có thể ứng dụng được trong hoàn cảnh 
riêng của ta thì cũng vô ích. Giáo dục trường lớp và các khả năng tri thức có 
thể phần nào giúp ta hiểu và đương đầu với nhiều hoàn cảnh trong đời; nhưng có 
được một tâm rộng mở thì quan trọng hơn.
Dầu tất cả chúng ta, ai cũng đều 
có khả năng thông cảm và yêu thương, nhưng nếu ta không phát triển những đức 
tính này cũng như không đem chúng áp dụng vào cuộc sống, thì cũng bằng như không 
có. Một kẻ giàu mà không biết sử dụng đồng tiền của mình, cũng không bằng người 
nghèo mà biết cách dùng tiền một cách hữu ích.     Vì thế ta cần có chánh niệm, 
sử dụng những gì ta có một cách hữu hiệu. Thí dụ, chỉ biết đến tình cảm ghen 
ghét bên trong ta, chưa đủ; ta còn cần phải có sự cố gắng và khéo léo để điều 
phục, hoán chuyển nó. Bằng cách đó, lòng tự tin và sức mạnh của ta được tăng 
trưởng; cảm giác hẹp hòi và vô ích sẽ biến mất, nhường chỗ cho một tâm hồn cởi 
mở, một tấm lòng tự trọng.
Nếu ta tiếp tục sử dụng chiếc gương soi, dần 
dần ta sẽ nhận rõ được sự tiến bộ của mình, chứng tỏ ta có sự phát triển tâm 
linh, và những đau khổ chúng ta phải chịu đựng trước đó sẽ dần dần biến 
mất.
Từng bước, từng bước một, ta sẽ có thể xác định và làm vô hiệu hóa 
những độc tố nội tâm, những trạng thái tiêu cực của tâm đã khiến cho cuộc đời 
càng thêm khó sống. Không ai có thể làm chủ được thế giới bên ngoài, nhưng chúng 
ta có thể đánh bại sân hận, tự ái, ham muốn, lòng căm ghét và ganh tỵ trong lòng 
ta. Những chướng ngại này đã khiến chúng ta thêm xa cách với cuộc sống. Khi đã 
khuất phục đưọc chúng, lúc đó ta sẽ không còn cảm thấy cuộc sống đối nghịch với 
ta. Chúng ta sẽ thấy tự tại với chính mình, với thế giới quanh ta, và ta sẽ có 
thể giúp đỡ người khác nữa.  Tất cả mọi người, mọi việc đều trở nên thuận lợi, 
hữu ích đối với chúng ta, cũng như ngược lại.
Sống với một chiếc gương 
soi luôn ở trước mặt, không phải là chuyện dễ, nhưng để hiểu và giải quyết những 
vấn đề của chúng ta trong cuộc sống, ta cần phải chịu đựng một số khó chịu, bực 
bội. Sức mạnh của thói quen khiến chúng ta dễ phán đoán và cố sửa đổi người 
khác, vì thế việc phải đối mặt với chính lỗi của mình để sửa đổi chúng có thể 
làm chúng ta cảm thấy e sợ. Cũng là điều tự nhiên khi ta sợ điều ta chưa biết; 
hướng giải quyết là phải tìm hiểu và làm bạn với chính mình, giống như người 
luyện tập thú, trước hết phải lấy được lòng tin của con vật.
Phương pháp 
để tu sửa bản thân này không thể là những lời nói dễ dãi đầu môi, nó phải được 
xuất phát từ trong thâm tâm một cách chân thành, quyết liệt. Vậy chúng ta hãy 
bắt tay vào việc phân loại những vấn đề của mình. Chúng ta phải chế ngự tâm và 
rèn luyện chính mình. Nếu không, ta sẽ tiếp tục thấy cuộc đời khó sống, tiếp tục 
đổ lỗi cho người và hoàn cảnh khi có việc khiến ta phiền hà, bực bội. Lúc đó ta 
lại phải phân loại hàng triệu người để đối phó, chứ không phải một. Vì thế thay 
vì cố gắng thay đổi người khác, ta hãy nhìn vào gương soi, và sửa đổi chính 
mình.
(Theo The Mirror, TAMING THE TIGER, NXB Inner Tradition, 
1995)
 
17 VÔ NHÃN, NHĨ, TỶ... 
 Barbara 
Brodsky
 
Vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý 
Vô sắc, thanh, 
hương, vị, xúc, pháp . . . 
Kinh Bát Nhã Ba La Mật 
Barbara 
Brodsky đã hành thiền từ năm 1970. Bà hướng dẫn các khóa thiền Vipassana và Tào 
động khắp nơi trên thế giới. Bà cũng là vị thầy hướng dẩn ở Trung Tâm Deep 
Spring, nơi thường tổ chức các lớp hành thiền và các khóa an cư. Bà đã bị khiếm 
thính nặng từ hơn hai mươi lăm năm nay. Việc phải sống với sự im lặng đã ảnh 
hưởng nhiều đến cuộc sống cũng như phương pháp giảng dạy của bà. Bà cũng có 
nhiều năm tham gia tích cực vào các phong trào chuyến hóa xã hội với tinh thần 
bất bạo động. Bà còn là nhà điêu khắc, nhà văn.
 
Vô nhĩ; vô 
thanh; không có âm thanh. Vào năm 1972, tôi đánh mất khả năng nghe, và tất cả 
các dây thần kinh trong tai cũng bị hư hoại làm ảnh hưởng đến sự cân bằng của cơ 
thể. Sự mất mát này là nỗi đau khổ lớn nhất trong đời tôi, đồng thời cũng là một 
quà tặng quí báu nhất.
Tôi phải đối mặt với sự mất mát này cũng như với 
những trở ngại khác, nghĩa là phải đem hết tâm sức ra tranh đấu để chấp nhận, 
thích ứng với tật bịnh của mình, và không cho phép mình được than khóc, tự 
thương hại mình. Tôi còn là mẹ của những đứa trẻ, nên dù cảm thấy đau đớn, chán 
nản, tôi không thể quên được bổn phận phải nuôi dưỡng con. Chấp nhận được sự mất 
mát của mình giúp tôi cảm thấy tự chủ, dù rằng tôi không thể hoàn toàn làm chủ 
được cơ thể mình. Tôi không thể nghe; không thể đứng, đi, đọc hay chủ tâm nhìn 
vào một điểm nào. Tôi nằm trên giường bịnh nhưng cả thế giới như quay cuồng đảo 
lộn với những cơn nôn mửa đến chóng mặt. Tôi có cảm tưởng như mình bị bọc trong 
một quả bóng khổng lồ đến độ tất cả mọi âm thanh từ thế giới bên ngoài không thể 
nào với tới tôi.
Khoảng một tháng sau tai nạn, tôi bắt đầu phải bò như 
một đứa trẻ, đầu gối tôi sưng phồng trên nền gỗ. Nhưng từ từ tôi gượng đứng lên 
trên hai chân, đặt những bước đi đầu tiên, rồi ngã sóng soài giữa khoảng không 
gian tưởng chừng vô tận giữa tủ quần áo đến cửa phòng, rồi cửa phòng đến tủ sách 
khi cố gắng giữ thăng bằng trước mặt.  Cuối cùng dầu tôi chưa thể đoán được chữ 
trên môi người, tôi đã có thể tập trung mắt nhìn lâu ở một chỗ để có thể đọc 
sách được. 
Đức Phật đã dạy rằng ta phải quý thân này, nhưng tôi vứt bỏ 
thân tôi như một tấm giẻ rách. Tôi bỏ mặc tiếng kêu đau đớn của cơ thể, không 
cần biết đến sự giới hạn của nó, tôi tự đứng lên để chấp nhận nỗi bất hạnh này.  
Ngoài mặt coi như tôi đã thắng được số phận. Tôi may mắn có được một gia đình êm 
ấm, bạn bè tốt và công việc của một nhà điêu khắc, đồng thời là giáo sư đại học, 
cũng đem lại cho tôi nhiều an ủi. Tôi cố gắng đẩy lùi lòng sân hận, nỗi sợ hãi 
luôn đe dọa cuộc sống yên lành của tôi.
Không lạ gì khi càng ngày tôi 
càng cảm thấy xa cách mọi người chung quanh. Khi liên hệ trực tiếp với ai, tôi 
không có vấn đề, nhưng khi ở giữa đám đông, khi quanh tôi một vài người bắt đầu 
nói, tôi lại có cảm tưởng mình đang đứng ngoài cửa sổ lạnh lẽo. Nhìn vào một đám 
đông đang chuyện trò bên những bàn tiệc ấm cúng, tôi chỉ có thể ngồi ở bên ngoài 
lạnh lẽo, nhìn họ với bao thèm muốn.  Lúc nào như cũng có một tấm gương thinh 
lặng ở giữa chúng tôi.
Dĩ nhiên là bạn bè đã cố gắng giúp đỡ tôi rất 
nhiều.  Họ tập nói chậm hơn. Nhiều người còn học cả 'ngôn ngữ im lặng' bằng cách 
ra dấu tay. Họ 'dịch' cho tôi khi người khác nói. Dần dần tôi nhận ra rằng không 
phải sự vô tâm của họ làm tôi đau khổ, mà chính là lòng ao ước, nỗi sân hận 
trong lòng đã hành hạ tôi. Khám phá đó cũng chẳng ích lợi gì, vì tôi lại bắt đầu 
tự trách mình đã không biết mang ơn lòng tử tế của những người quanh 
tôi.
Rõ ràng là tôi cần phải suy gẫm, quán chiếu về cảm giác bị cô lập 
của mình. Nỗi đau khổ triền miên buộc tôi phải tìm lối ra. Nhưng bằng cách nào? 
Tôi hãy còn trẻ, lúc đó tôi chưa được biết đến Phật pháp. Dầu rằng lòng tin vào 
tín ngưỡng của tôi (đạo Quaker) trong bao nhiêu năm cũng phần nào nâng đỡ tôi, 
nhưng nó không dạy cho tôi phương cách nào để luôn có mặt ở hiện tại.
Hơi 
thở luôn có mặt với chúng ta. Tôi bắt đầu chú ý đến hơi thở vào, hơi thở ra khi 
làm việc. Chú ý đến cách tôi cầm cây hàn xì, cách bàn tay tôi di chuyển. Rồi tôi 
bỗng nhận thấy tất cả hình như hòa vào nhau - bàn tay, cử động, cây hàn xì, ánh 
lửa. Tôi cảm thấy một niềm vui tràn ngập như thể tôi và tất cả đang hòa chung 
một nhịp điệu.  Tôi hiểu rằng sự tự thương hại hay tự trách mình đều không giải 
quyết được điều gì. Trái lại khi tôi hòa nhập vào công việc của mình, chủ tâm 
đến hơi thở, đến từng chuyển động của thân, tâm tôi không cần phải tư duy để đem 
lại an bình cho tôi. Tôi đã có mặt ở đó.
Phải trải qua nhiều thời gian 
trước khi tôi hiểu được tính chất của sự mất mát của mình, và lâu hơn nữa trước 
khi tôi có thể hiểu, làm lành được vết thương bị làm người khiếm thính. Suốt 
những năm tháng đó, suốt ngày tôi chỉ thực  hành thở khi sáng tạo, thở khi mài 
dũa, hàn xì, thở và hiện hữu. Tôi bỏ rất nhiều giờ mỗi ngày, tháng này qua tháng 
khác, thực tập như thế hơn mười năm.
Trong những năm tháng đó, sự hành 
thiền của tôi dần thay đổi và sâu lắng hơn. Nỗi đau khổ của tôi vẫn hiện diện, 
nhưng đã giảm mức độ. Sự thực hành đó đã giúp tôi suy gẫm về trạng thái của khổ 
đau, để hiểu nó đã phát sinh do cảm thấy mình khác biệt với mọi người chung 
quanh, dẫn đến cảm giác cô đơn cùng cực.
Ngày nay tôi không còn thấy mình 
'điếc' nữa, chỉ là tôi nghe ở một mức độ khác: Tôi nghe sự lặng thinh! Đó là một 
khả năng thiên phú! Vâng, tôi vẫn còn cảm nhận được nỗi buồn trong tiếng cười 
của các con tôi, vẫn thèm được nghe những âm thanh tuyệt vời đó. Nhưng tôi không 
còn cảm thấy khổ đau trầm trọng nữa. Cái tôi mất mát nơi thính giác nhắc nhở tôi 
hãy rộng mở trái tim đón muôn ngàn niềm vui cũng như nỗi buồn của tất cả chúng 
sanh.