Vào đêm trước ngày chiến tranh Trung Đông bùng nổ, hương vị ngọt ngào của hòa
bình còn phảng phất trong không khí cùng với mùi lá của mùa thu. Tôi nghĩ rằng
chúng ta cần phải nhìn vào nội tâm và tâm thức của chúng ta để thấy rằng ta có
thể làm một điều gì đó cho những vấn đề này, và làm thế nào để ta có thể góp
phần tìm giải pháp cuối cùng cho các vấn đề.
Có phải tôn giáo hỗ trợ cho
hòa bình và hòa hợp hơn là góp phần cho sự kỳ thị, mù quáng, bạo động và chiến
tranh? Bất bạo động là giới đầu tiên trong Phật giáo, và là giáo lý cơ bản của
một số tôn giáo trên thế giới; nhưng hãy nhìn lại những gì đang xảy ra trên thế
giới, vừa rồi là Trung Đông và Bosnia và Tích Lan (Sri Lanka) xuyên qua chiều
dài lịch sử. Ngay tại đất nước này, Mỹ quốc, súng ở nơi trường học và gia đình
tiếp tục gây hại cho chúng ta. Trong khi đó, lúc này là Tháng Nhận Diện Bạo Động
trong Gia Đình, một vấn đề đang tấn công gần đến gia đình của chúng ta – một vấn
đề mà, tôi nghĩ rằng, sẽ sống lâu hơn cả đa số chúng ta. Bạo động đang dẫn đầu
trong thời đại này và là một đề tài quan trọng cần phải quan tâm, nhưng chúng ta
đã không tiến bộ mấy trong việc ngăn ngừa hoặc đối diện với nó.
Martin
Luther King đã nói chúng ta có hai lựa chọn: cùng sống chung hòa bình, hoặc là
tự hủy diệt. Anh có biết có bao nhiêu đất nước trên thế giới đang trải nghiệm
chiến tranh hiện nay không? Cả chục đất nước đấy! Tuy nhiên, ở Mỹ quốc chúng ta
không cảm nhận được chiến tranh cụ thể như khi chúng ta cảm nhận rất nhiều chiến
tranh trong thế kỷ 20. Chiến tranh không bắt đầu ở nơi nào khác, trên chiến
trường, dọc theo biên giới đang bị tranh chấp, hoặc trong phòng họp đại sứ, hoặc
các buổi họp kinh tế cao cấp; chiến tranh bắt đầu với tính tham lam, ganh ghét,
thành kiến, kỳ thị, ngu si và tàn ác trong tâm của con người. Bởi vì chiến
trường thật sự nằm ngay trong tâm của con người, như Dostoevsky nói. Nếu chúng
ta muốn hòa bình trên thế giới – và tôi tin chắc rằng tất cả chúng ta đều mong
muốn như vậy – chúng ta cần nhìn vào sự kiện và học làm thế nào để trở nên dịu
dàng hơn và nên từ bỏ vũ khí nơi tâm tưởng, cũng như có những phản ứng đối với
sự tước bỏ vũ khí nguyên tử và làm thế nào cho có hòa bình trong thời đại của
chúng ta. Chúng ta cần suy nghĩ một cách toàn cầu và hành động theo cục bộ, bắt
đầu với chính bản thân chúng ta và đối với thành viên trong nhà, trong gia đình,
cũng như ở nơi làm việc và trong xã hội, và lan rộng dần, vươn ra xa hơn, ôm lấy
tất cả vòng tròn tập thể bao gồm trách nhiệm và bảo dưỡng.
Trong Phật
giáo, Bố tát Avalokisteshvara là hiện thân của tâm Phật về tình yêu và lòng từ
bi, tử tế, thương xót, tha thứ, chấp nhận và vui vẻ. Vị ấy là hình tượng tâm
linh chánh được nhân cách hóa với những phẩm chất nói trên, hiện đang ẩn mình
trong tất cả chúng ta, đang đợi chúng ta phát triển, nuôi dưỡng, và hiện thực
hóa nó. Đó là ý nghĩa trở nên giác ngộ và trở nên một vị Phật, một điều mà bất
cứ ai cũng có thể làm được nếu như họ đi theo con đường tâm linh tới mức cuối
cùng; có nghĩa là nhận diện và hiện thực hóa những gì đang trong tâm chúng ta.
Đó là Phật tánh, đó là Phật sẵn có trong tâm – không phải vị thầy lịch sử ở Ấn
Độ, mà là sự tỉnh thức thật sự từ một vị trời, từ nơi trí tuệ và từ bi trong
lòng, trong tâm thức của chúng ta. Thành Phật nghĩa là đánh thức phật tính, nhận
diện được nó một cách xuyên suốt, và sống trọn vẹn với phật tính ở ngay nơi thế
giới này bằng cách thiêng liêng hóa cuộc sống của chúng ta một cách toàn
vẹn.
Đêm nay chúng ta ngồi thiền chung với nhau, và rồi chúng ta niệm câu
thần chú Tây Tạng về tình thương yêu và lòng bi mẫn, thần chú của đức Bố Tát
Avalokisteshvara OM MANI PEDME HUNG (OM MANI PADME HUM), câu thần chú của ngài
Dalai Lama và là câu thần chú rất phổ thông ở Tây Tạng. Chúng tôi niệm câu ấy
trong lúc liên tưởng đến những ánh sáng vô hạn phát xuất từ luân xa nơi tim,
vươn ra xa và chạm đến tất cả chúng sinh, đánh thức họ, làm cho họ sáng rỡ với
những lời chúc tốt đẹp và với tình thương tốt lành.
Chúng ta nuôi dưỡng
Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Phật Avalokita – nói một cách kỹ thuật là một
vị Đại Bố Tát, đã từ chối không bước vào cõi tịch lạc của Niết Bàn để có thể
tiếp tục nhiệm vụ giải thoát cho tất cả chúng sinh – ở Tây Tạng, ngài còn được
gọi là Chenrezi, ở Trung Quốc ngài được gọi là Kuan Yin (Quán Âm), ở Nhật Bản,
ngài được gọi là Kannon; một người có thể nhìn thấy hình tượng của Bồ-tát ở mọi
nơi trong nghệ thuật Phật giáo và thiền viện, chùa chiền ở đa số các nước. Thiền
định về lòng thương yêu và từ bi là một trong những thiền định quan trọng bậc
nhất trong Phật giáo, và rất phổ thông trong các trường Phật giáo.
Các
yếu tố chính trong việc đánh thức tâm linh xuyên qua nhiều con đường truyền
thống, là sự thực tập bất bạo động, tha thứ, và từ bi; điều thiết yếu bao gồm sự
học tập để đối diện với cơn giận và sự ganh ghét bằng cách thanh tịnh hóa bản
thân chúng ta, diệt tận gốc rễ của sân hận từ nơi tâm thức. Một trong những giáo
điều luân lý của Phật giáo, cũng như trong tâm linh sâu thẳm, là sự bất bạo
động, không sát hại – và bảo thủ hơn, là giúp đỡ tận tình và yêu thương tha
nhân, nếu như anh có thể làm được. Tôi nghĩ ít ra là phải như vậy. Và đây chính
là sự thực tập, không phải chỉ là lý tưởng suông; những phẩm hạnh tốt lành này
không phải chỉ có ngài Dalai Lama hoặc Mahatma Gandhi và ông Albert Schweitzer,
Mẹ Teresa, Chúa Jesus và đức Phật mới làm được, nhưng đó là điều chúng ta có thể
thực tập trong cuộc sống hàng ngày, bằng cách này hay cách khác, việc lớn cũng
như việc nhỏ, thật không kể xiết. Chúng ta đều quan tâm và có lẽ hoạt động rất
nhiều cho hòa bình trên thế giới, trong cộng đồng và gia đình của chúng ta, và
kể cả hòa bình nơi tâm chúng ta, cũng như đối với những người khác. Tuy nhiên
chiến tranh, bạo động và gây hấn mà chúng ta đang đối diện ở nhiều cấp bậc khác
nhau, tất cả đều xuất phát từ nơi sân hận, thù ghét, tham lam và ngu si trong
tâm thức của chúng ta. Đó là cội rễ, và là cội rễ duy nhất của tất cả những điều
xấu ác.
Do đó, hãy bắt đầu với những cảm xúc tiêu cực, nó dẫn dắt chúng
ta làm điều sai trái với những kết quả không như ý. Klesha (Kiết sử) là một từ
phật học được dùng để nói về những cảm xúc tiêu cực. Kiết sử đôi lúc cũng được
dịch ra “những tình cảm mạnh mẽ mang lại ưu phiền”, hoặc những cảm xúc gây trở
ngại. Những chữ này đều không chính xác để diễn tả kiết sử. Những từ này dễ làm
cho chúng ta hiểu lầm, phán đoán một cách quá nhanh chóng, và nghĩ rằng chúng ta
cần phải dẹp bỏ tất cả các cảm giác, cảm xúc, và sự nhạy cảm thông thường, để
đạt được những thứ được gọi là sự thanh thản lý tưởng và sự vô tư về tâm
linh.
Mục đích của chúng ta ở đây, kiết sử (kleshas) làm rối loạn các
thói quen suy nghĩ ích kỷ, và các cảm giác mâu thuẫn, làm cho chúng ta có những
phản ứng, hành động vô ý thức, vụng về, xấu ác. Các kiết sử (kleshas) mà chúng
ta đang bàn ở đây là: nói về cái tôi và các cảm xúc mạnh mẽ, sự áp đảo có sức
tàn phá, như giận dữ, thù hận, ganh ghét, ham muốn, thèm khát quá sức tưởng
tượng, ham lợi, v..v.. Chúng ta không nói đến những cảm xúc tích cực hoặc những
cảm xúc ích lợi như tình thương yêu, sự dịu dàng và lòng bi mẫn. Để đối trị với
các cảm xúc tiêu cực khó khăn, giận dữ là một điều quan trọng mà chúng ta cần
bàn đến. Làm thế nào để chúng ta có thể đối trị với năng lượng mạnh mẽ
đó?
Những bài giảng Phật giáo cho rằng ngay trung tâm của vòng luân hồi
sanh tử quái ác, bánh xe hình thành ba độc, ba gốc rể kiết sử: tham lam, sân hận
và si mê. Kiết sử làm nhiên liệu cho sự đối lập hoàn toàn về mọi bám víu, và ác
cảm đã làm cho chúng ta ngu muội, si mê và rối loạn. Từ si mê đưa đến tham lam.
Tham lam, ham lợi, ham muốn, thèm khát và tất cả những thứ khác. Cũng từ si mê
đưa đến giận dữ, công kích, độc ác và bạo động.
Tất cả hai thứ độc là sức
mạnh đối lập căn bản trong chúng ta, đó là: bám víu và ganh ghét. Nó bắt nguồn
từ si mê, và nó không khác gì: “đi khỏi nơi đây” và “tôi muốn”, nó rất giống
nhau, như kéo tới và đẩy lui; và làm cho cơn giận xuất hiện. Sự giận dữ được nêu
ra như một thứ kiết sử có sức hủy diệt to tát nhất, bởi vì sự giận dữ dễ dàng
thoái hóa để trở thành gây hấn và bạo động.
Tuy nhiên, cơn giận dễ dàng
bị hiểu lầm, ngay cả trong thực tập của Phật giáo, làm cho chúng ta phải đè nén
nó và làm cho chúng ta bệnh, khó chịu và mất thăng bằng. Tôi nghĩ đây là lúc cần
suy nghĩ về điều này. Phương pháp chữa bệnh tâm lý cũng rất ích lợi.
Đôi
lúc cơn giận là một thứ rất đáng sợ khi chúng ta thật lòng phải đối diện với nó.
Làm thế nào để chúng ta có thể đối trị với những cảm xúc khó chịu như sự sợ hãi
và cơn thịnh nộ khi nó xuất hiện, nó như là sóng thần hoặc núi lửa? Tôi nghĩ
rằng tốt nhất đầu tiên chúng ta nên bắt đầu bằng cách xét nghiệm một hoàn cảnh
ít căng thẳng, bắt đầu với những trường hợp nhỏ, khi cảm xúc khó chịu xuất hiện,
giống như trong lúc thiền định. Khi chúng ta thực tập một mình, hoặc nơi Thiền
Viện, phòng tập du già hoặc khóa thiền – nơi mà tất cả mọi thứ đều được sắp xếp
hoàn chỉnh cho bạn với sự bảo vệ an toàn, và tiện nghi thích ứng – cơn giận sẽ
khó mà khuất phục chúng ta. Nhưng vẫn còn chút nào đó khó chịu, như mấy con muỗi
bay qua bay lại gần nơi tai hoặc tiếng ồn ào của xe cộ bên ngoài.
Có thể
có người vì sơ ý đã dẫm lên chân anh trong khi xếp hàng ăn trưa, hoặc người ngồi
kế bên anh đứng ngồi không yên và ho sù sụ; hoặc có thể thầy giáo nói gì đó mà
anh nghe không lọt tai? Làm thế nào để chúng ta đối trị với những việc này khi
cơn giận, ganh ghét và chỉ trích vừa lóe lên? Có phải chúng ta cắn răng và dằn
nó xuống, lầm lẫn rằng sự thanh thản giả tạo như đá này là sự thanh tịnh, buông
bỏ và thanh thản trong khi thật sự nó là sự bạo động, chống đối lại với bản chất
chân thật của anh: bạo động dưới dạng đè nén, dằn xuống, và trốn tránh? Kiểu
trốn tránh và đè nén hiển nhiên này rất giống với sự ganh ghét biểu hiện ra cử
chỉ hầu đẩy lui những cái không ưng ý.
Có vài người có vẻ rất tự chủ,
điềm tĩnh, an nhiên, nhưng mà bên trong chắc họ đang dao động – và trong chúng
ta cũng có vài người như vậy! Có thể là nanh vuốt của chúng ta chưa giương ra,
chĩa thẳng tới kẻ khác, như trong trường hợp những người quá nóng nảy; nhưng vũ
khí bén nhọn có lẽ đang chĩa vào bên trong chúng ta, như trường hợp những người
bị mất tự tin, tự chán ghét, và tự căm thù, tất cả đều nằm trong căn bệnh suy
nhược tinh thần. Sự từ bỏ là một trong những con sông to lớn nhất chảy qua đất
tim của chúng ta. Chúng ta coi như thực hành tốt khi cho rằng những bộc phát nhỏ
từ lòng đất như căm phẫn và ganh ghét, cùng với những giận hờn thỉnh thoảng xuất
hiện, và làm bộ như chúng không có mặt ở đó. Nếu chúng ta nằm ở vị trí khá hơn
để đối trị, thấy rằng hạt giống giận hờn đều nằm sẵn trong lòng tất cả chúng
ta.
Shantideva, vị Thầy Cao Quý, đã viết một quyển sách cổ điển “Bước vào
Con Đường Bố-Tát” (Nhập Bồ Đề Hành Kinh - Bodhicharyavatara) cách đây một ngàn
hai trăm năm trước, có nói: “Giận hờn là cái xấu ác nhất; kiên nhẫn chịu đựng là
tu khổ hạnh cao nhất”. Có phải là quá lý thú hay không? Cơn giận được coi như là
tính chất tiêu cực to tát nhất, giống như sát hại là tội lỗi to lớn nhất. Kiên
nhẫn và tha thứ được xem là phẩm hạnh cao nhất, một thực tập tu khổ hạnh khó
khăn nhất. Thông thường chúng ta nghĩ rằng thực tập khổ hạnh như nhịn ăn hoặc
nhịn ngủ, thức khuya tụng kinh, hành hương, hoặc như các vị thầy khổ hạnh của Ấn
Độ ngủ trên những giường chông hoặc không bao giờ ngồi, không bao giờ nằm. Tuy
vậy, ngài Shantideva có nói sự nhẫn nại, kham nhẫn, là tính chất khổ hạnh cao
nhất; không hẳn chỉ là những thăng trầm vật lý. Có phải đáng kinh ngạc hay
không?
Tại sao cơn giận lại là việc xấu ác nhất? Ngài Shantideva đã giải
thích, chỉ cần một phút là cơn giận có thể thiêu rụi cả núi công đức và nghiệp
tốt. Thí dụ, anh có thể bị mù quáng vì cơn giận che mất lý trí, và anh làm việc
gì đó mà sau này phải hối hận cả đời. Trong phút giây nóng giận tối mặt ấy, hoặc
giả anh say rượu đêm đó, anh lại lái xe, và như vậy anh có thể hủy diệt mạng
sống của chính mình… Chiếc xe lúc ấy trở nên một vũ khí giết người, chỉ trong
một phút. Vì vậy chúng ta cần phải chú tâm và cẩn thận. Vì lẽ đó, ngài
Shantideva đã cảnh báo với chúng ta là cơn giận có sức hủy diệt rất lớn, chỉ một
phút vô ý, bất cẩn như là liệng tàn thuốc ra khỏi xe, và tàn thuốc có thể bắt
lửa thiêu rụi cả một khu rừng. Shantideva nói, cơn giận là cái xấu ác nhất, nhẫn
nại và tha thứ là phẩm hạnh cao nhất. Kể cả nhà thơ của thế kỷ thứ 18, ông
Alexander Pope được mệnh danh là nhà phê bình xã hội độc địa nhất cũng đã nhìn
nhận trong câu nói của ông, “Lầm lỗi là con người, tha thứ được mới là siêu
phàm.”
Chúng ta có thể vươn tới sự siêu phàm nội tại bằng cách thực hành
hạnh buông xả, tha thứ, đã nằm sẵn trong tim chúng ta ; và chúng ta có chịu chọn
lựa để thực tập khả năng tha thứ đang tiềm ẩn nơi chúng ta hay không? Chúng ta
đều biết rằng cuộc sống luôn luôn không đơn giản, và rất khó khăn để mà thực
hành kham nhẫn cũng như tha thứ khi đối diện với sự bất công, hoặc hiểm nguy, có
đúng thế không ? Dù như vậy, chúng ta cũng phải cố gắng, nếu chúng ta muốn bước
đi trên con đường căn bản của bất bạo động, theo các gương của những vị đi trước
như Thánh Gandhi, đức Dalai Lama. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm được, nếu chúng
ta có quyết tâm.
Chúng ta có thể thực tập từ ngoài vào trong cũng như từ
trong ra ngoài, để trở thành người tốt hơn và để nuôi dưỡng tấm lòng thanh cao.
Thật vậy, chúng ta cần hoạt động bên ngoài để có được hòa bình cho thế giới, cho
các đất nước từ bỏ vũ khí, và chống lại sự bất bình đẳng, kỳ thị chủng tộc, và
tội diệt chủng; bởi vì “Sự công bình là quà tặng cao quý hơn tất cả các quà tặng
khác”, theo lời của Đức Phật trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada). Tuy vậy, chúng ta
cũng phải thực tập từ bên trong ra đến bên ngoài, từ bỏ vũ khí nơi tâm chúng ta,
hãy thư giãn, hãy dịu dàng hơn, hãy vén màn tăm tối cho trái tim hiền dịu của
chúng ta.
Tấm lòng tốt, vị Tiểu Phật, trong lòng mỗi chúng ta, nằm bên
dưới những máy móc tự vệ khó tìm thấy, dưới những điều xã hội hóa mà chúng ta đã
học qua – cái vỏ rắn chắc mà chúng ta sử dụng như là một cái áo giáp để đối phó
với những nhu cầu cấp bách của cuộc sống. Nghĩa là nơi căn bản, hãy tìm thấy
trái tim hiền dịu của chúng ta, hãy buông bỏ sự tự vệ, thư giãn, và làm vỡ vỏ
bọc cứng rắn mà chúng ta khi lớn lên đã tự bao bọc chung quanh mình để bảo vệ
lấy bản thân. Hãy từ bỏ vũ khí không chỉ có nghĩa về mặt chiến tranh và vũ khí.
Mà nó muốn nói đến sự sống còn, sự sợ hãi và yếu điểm.
Đa số sự gây hấn
bắt nguồn từ nỗi lo sợ, sự ích kỷ khi đối diện với nguy hiểm. Khi tôi cảm thấy
tức giận, tôi thường hay nhìn lại xem tôi lo sợ điều gì. Hoặc tôi tự hỏi, “Ở nơi
đâu và làm thế nào mà tôi bị thương tích?” Ngay giây phút này giúp cho tôi đối
diện với việc đang xảy ra, hơn là đổ lỗi cho ai khác hoặc phản ứng quá khích.
Sau khi nỗi lo sợ dịu xuống, để nhận được sự hướng dẫn của ơn trên, tôi hay tự
hỏi: “Trong trường hợp này, đức Phật sẽ làm gì? Tình thương sẽ làm gì bây giờ,
nơi đây?” Việc này làm dịu đi cảm xúc mạnh mẽ của tôi; giúp cho tôi có ý sáng
tạo hơn và có phản ứng lanh lợi, tốt hơn là phản ứng trong cơn giận dữ; cảm giác
không lo sợ, nhưng dịu dàng, và thoải mái; cảm nhận thêm sự vô ưu, và chuyển hóa
việc đổ trách nhiệm sang kẻ khác, với lòng ganh ghét và cay đắng. Đây là những
manh mối cho sự giận dữ: bắt nguồn từ rất nhiều lo âu và sợ hãi, và trong căn
bản là phản ứng tranh đấu hoặc tháo chạy. Hòa bình bắt nguồn từ sự trau dồi tâm
thức của chúng ta, buông bỏ vũ khí nơi tâm, không cần phải có luật lệ an toàn
cho súng ống hoặc ngưng bắn. Thực tập Phật giáo luôn nhấn mạnh việc nuôi dưỡng
lòng tử tế và từ bi, sự tha thứ, chấp nhận và thương sót, cũng như sự không bám
víu và bớt ham muốn, đó là nhổ gốc rễ tham lam, và điều này mang lại hiệu quả lạ
thường, nó sẽ xoa dịu tâm thức rối loạn, bất mãn của chúng ta.
Vị ân sư
của tôi, Ngài Lạt-ma Dilgo Khyentse Rinpoche, có viết một quyển sách tuyệt vời
về Bồ đề tâm (bodhicitta), làm thế nào để đánh thức tâm Phật và giác ngộ, quyển
sách có tên Kho Tàng Tâm của Những Bậc Giác Ngộ (The Heart Treasure of the
Enlightened Ones). Khyentse Rinpoche là vị thầy Dzogchen của ngài Dalai Lama, và
là vị Lạt-ma của vô số những vị Lạt-ma khác, bao gồm Chogyam Trungpa Rinpoche,
Sogyal Rinpoche và Tsoknyi Rinpoche. Ngài Dalai Lama có một quyển sách gọi là
“Trị Giận Dữ, Năng lượng của Nhẫn nại và Chịu đựng từ Quan điểm Phật giáo”
(Healing Anger, the Power of Patience and Forbearance from a Buddhist
Perspective). Robin Casarjian, một bác sĩ chữa bệnh ở Boston từng làm việc ở
trường học và trong khám đường, có viết một quyển sách hay, có tên “Tha thứ:
Tiếng Nói Dũng Cảm cho Trái Tim An Lạc”. Bạn của tôi, bà Sharon Salzberg, một
trong những vị giáo thụ chuyên dạy về Thiền Sáng Suốt, là tác giả của quyển sách
“Lòng từ bi: Nghệ thuật cách mạng Hạnh Phúc”, và quyển “Trái tim rộng lớn như
Thế giới.” Có rất nhiều điều đáng cho chúng ta học hỏi.
Chúng ta không
nên quá sợ hãi, chán nản hoặc thất vọng, bởi vì tất cả chúng ta đều có sự giận
dữ trong lòng, đó là một phần của bản tánh con người. Ngài Dalai Lama nhìn nhận
rằng ngài có tức giận; tuy nhiên ngài biết mình phải làm gì đối với sự tức giận
đó. Thầy Thích Nhất Hạnh cũng tức giận, cũng như bà Aung San Suu Kyi và những vị
lãnh tụ của phong trào Phật giáo. Và những vị lãnh tụ này có rất nhiều lý do để
mà tức giận, có đúng thế không, xét về những gì mà các vị đó đã trải qua trong
cuộc sống, và những gì đã và đang xảy ra cho dân tộc và đất nước của họ, như ở
Tây Tạng, Việt Nam và Miến Điện trong những thập niên vừa qua. Tuy nhiên, sự tức
giận đó không hủy diệt được sự thanh thản và an lạc của tâm thức, bởi vì họ đã
thanh tịnh hóa bản thân và có thể dẫn dắt năng lượng nóng bỏng đó và chuyển hóa
nó một cách ích lợi hơn. Họ đã biết cách chuyển hóa, qua thực tập của Chuyển Hóa
Thái độ theo Đại Thừa (lojong).
Tác giả Phật tử Ani Thubten Chodron đã
có viết: “Khoa học cho rằng tất cả các cảm xúc là tự nhiên và tốt, và khi các
cảm xúc có khả năng hủy diệt chỉ khi nào nó được bày tỏ một cách không chính
đáng hoặc không đúng lúc hoặc không đúng người hoặc không đúng mức độ… Phép
chữa bệnh nhắm mạnh vào sự thay đổi cách bày tỏ, biểu lộ của các cảm xúc hơn là
trải nghiệm nội tại về nó. Phật giáo, nói cách khác, tin rằng những cảm xúc có
sức hủy diệt là những chướng ngại và cần phải diệt bỏ mới đạt được hạnh
phúc.”
Trong phút giây đó cơn giận xuất hiện nơi tâm thức, liên hệ đến
thân tâm, lúc đầu chỉ là một năng lượng, một cảm giác, một tia sáng le lói của
trải nghiệm; nó chưa trút vào sự bạo động và gây hấn. Chúng ta có thể học tập để
đối phó với nó, xuyên qua chính niệm, cộng với sự nhẫn nại, tự quan sát và khám
phá nội tâm. Các cảm xúc tai hại, có sức hủy diệt hoặc tiêu cực cần được giải
độc một cách khéo léo, bằng cách trau dồi những cảm xúc tích cực, như nhẫn nại,
từ bi, tử tế, v.v… Một liều thuốc giải độc đặc biệt cho cơn giận khi nó xuất
hiện nơi anh, là anh hãy nuôi dưỡng sự nhẫn nhịn, lòng từ bi và sức kham
nhẫn.
Khi cảm thấy hận thù, hãy nuôi dưỡng lòng tha thứ và bình thản, cố
gắng thấu cảm với người khác để thấy các cảm xúc này từ đâu tới: nếu như anh có
thể, hãy nhìn mọi vật qua cặp mắt của họ trong một lúc. Nếu bị khích động gây
hấn, hãy hít thở, thư giãn, làm cho tâm thức đang lay động trở nên yên lặng, và
dịu xuống, và cố gắng kềm chế, điều độ, hãy ghi nhớ rằng những người khác cũng
như anh đều mong muốn hạnh phúc và tránh đau khổ, nguy hiểm. Hãy xem sự bạo động
và cơn giận dữ, đó là cảm xúc giận dữ nội tại được biểu lộ ra ngoài một cách quá
đáng, điều thiết yếu cần phải làm là hướng dẫn và điều kiện hóa nó
lại.
Thực tập đơn giản nhất để áp dụng trong phút giây cơn giận xuất hiện
là:
1. NÓI: “Tôi biết là tôi đang giận.” (Hoặc điền vào chỗ trống: …. Lo
sợ…. buồn bã… ham muốn…)
2. Hít thở thật sâu, và trong khi thở ra, với
hơi thở ra, NÓI: “Tôi gửi lòng từ bi đến với cảm giác / năng lượng đặc
biệt.”
Trong thực tập này, hãy niệm chú đó, hoặc thay đổi một ít câu chú
đó; việc này như một phép lạ sẽ làm gián đoạn phản ứng thiếu suy nghĩ, và ngăn
ngừa được hành động xấu. Ngay lúc ấy, thực tập này có thể cung cấp cho ta một
phút giây tỉnh táo có chính niệm. Nó giúp cho ta săn sóc bản thân tốt hơn, hơn
là làm ta xấu hổ; và cắt bỏ thái độ tiêu cực khi ta biết rằng ta không thể làm
như vậy, bởi vì những phản ứng quá khích đã không mang lại lợi ích gì cho ta
trong quá khứ.
Đây là: Năm bước Chính Niệm đối phó với Cơn giận trong
Hiện tại
1. Để ý cảm giác của anh, và cảm nhận nó đang ở phần nào của cơ
thể.
2. Hãy ôm lấy nó với chính niệm, đừng phán xét, chối bỏ hay đè nén
nó.
3. Suy nghĩ về cảm nhận của anh, và tại sao, và xem cảm giác đó là
nguyên nhân từ người khác hay là từ nơi nội tâm của anh.
4. Dẫn dắt điều
khiển năng lượng một cách có lợi ích hơn.
5. Chuyển hóa và buông thả
năng lượng vừa xuất hiện, nhìn nhận năng lượng đó là trống không, tạm thời, như
một cơn mơ.
Trong thực tập về tâm thức của pháp Đại thừa (Lojong), chúng
ta tìm thấy câu nói thảng thốt của ngài Shantideva: “Kẻ thù/ kẻ chống đối là vị
thầy tốt nhất.” Ngài Dalai Lama cũng thường lập lại câu này để chúng ta suy nghĩ
khi bị công kích hoặc bị hại bởi kẻ khác, như vậy ta có thể trưởng thành với sức
mạnh nội tại, biết nhẫn nhịn và chịu đựng, và phát triển lòng từ bi đối với
những kẻ hãm hại – kể cả khi kẻ hãm hại ta không ai khác hơn là chính bản thân
!
Chúng ta có thể đọc điều này trong phần cuối quyển sách mới của tôi
«Đánh thức Trái Tim Phật tử» (Awakening the Buddhist Heart), trong chương mười,
“Thuật giả kim Tâm Linh: Hãy ôm lấy Bài học Cuộc sống” (Spiritual Alchemy:
Embracing Life’s Lessons); và chương mười một, «Học Thương yêu Cái mà Anh Không
Thích” (Learning to Love What You Don’t Like.) Anh có thể đọc bản dịch của tôi
về thực tập tâm thức theo phương pháp Cổ xưa Tây Tạng, và bài chuyển hóa thái độ
(lojong) dưới dạng phụ lục của quyển sách, có tên, “Ba mươi bảy Thực Tập của các
Vị Bố Tát” (The Thirty Seven Practices of the Bodhisattvas), nhấn mạnh về sự
không ích kỷ, lòng từ bi và tử tế; và bồ đề tâm (bodhicitta), trái tim sáng rỡ
của Phật Pháp. Thực tập kiểu Tonglen nằm trong quyển sách đó, ở các trang 208 –
217.
Vị thiền sư Việt Nam, thi sĩ và là người lãnh đạo phong trào Phật
giáo dấn thân, thầy Thích Nhất Hạnh nói, “Thái độ của chúng ta là chăm sóc cơn
giận. Chúng ta không đè nén hoặc ghét bỏ nó, hoặc chạy trốn nó. Chúng ta chỉ hít
thở nhẹ nhàng và ru cơn giận trong tay với sự dịu dàng tột độ” Ngài Dalai Lama
thường nói, “Tôn giáo của tôi là Lòng tử tế. Cái quan trọng nhất trong cuộc sống
là tình người ấm áp… Đừng cố gắng thay đổi tôn giáo của ai, hãy cống hiến sức
khỏe và hạnh phúc cho mọi người.” Tôi cho rằng đây là tính chất tâm linh tốt
nhất, vượt xa hết các loại chủ nghĩa và ly giáo.
Trong quyển sách, “Con
đường đưa đến Thanh bình” (The Path to Tranquility), ngài Dalai Lama viết: “Khi
con người tức giận, họ mất hết cảm giác hạnh phúc. Kể cả khi bình thường họ xinh
đẹp và an lạc, lúc giận khuôn mặt họ trở nên xám xịt và xấu xí. Cơn giận làm rối
loạn sức khỏe và làm nhiễu loạn tất cả; nó làm cho ta ăn mất ngon và làm cho ta
già trước tuổi. Hạnh phúc, an lạc và giấc ngủ sẽ tránh xa họ, và họ không còn
cảm thấy biết ơn những người đã giúp đỡ họ, và không xứng đáng để được tin tưởng
hay mang ơn.”
Robert F. Kennedy ba mươi năm trước đã có nói “Chính trị
là một nghề thanh cao”, và chẳng ai cười. Từ lâu, tôi suy nghĩ về sự lãnh đạo
thiếu đạo đức trong chính trị, thương mại và học đường, và khi đọc quyển sách
“Nghệ thuật lãnh đạo có đạo đức”, một quyển sách mới của Robert Coles, đầy ý
kiến và mang lại nhiều hứng khởi. Tôi giới thiệu với các bạn trang 190 của quyển
sách, nói về phẩm chất lãnh đạo có đạo đức mà trong mỗi chúng ta đều có thể thực
hành và phát triển. Vừa rồi, tôi đã đọc vài bài giảng của Desmond Tutu, mà tôi
cho rằng ông là một thí dụ điển hình về sự lãnh đạo có đạo đức hiện nay. Ông
tham dự ở tòa án, và nói rằng trong phiên tòa dài xử lý những tội ác có liên
quan đến việc tách biệt chủng tộc ở Nam Phi, mặc dầu những hành vi ác độc khủng
khiếp đã xảy đến cho dân tộc của ông được đưa ra ánh sáng, ông lại có một kết
luận thật không tin nổi, ấy là “Con người thật là đẹp.” Khi tôi đọc đến đây, với
bản năng, tôi cảm nhận ngay ông là một vị Bồ Tát Thiên Chúa Giáo, đã thực tập
một cách rốt ráo lời dạy của Chúa Jesus, đã chuyển hóa những cay đắng trở thành
hiện thực tâm linh sáng chói, như phượng hoàng được tái sanh từ trong tro
bụi.
Những người như Hồng Y Tutu, ngài Dalai Lama, và thầy Thích Nhất
Hạnh đã học cách điều khiển và đối diện với cơn giận, tất cả những cảm giác, cảm
xúc, tình trạng tinh thần chắc chắn xuất hiện nơi con người. Trong phạm vi nào
đó ở thế gian, họ đã có thể mở lòng ra đối diện với khía cạnh khó khăn của cuộc
sống – về mặt đạo đức không đè nén cơn giận hoặc nỗi căm phẫn, nhưng bằng cách
hoàn toàn trải nghiệm nó, và biết phải làm thế nào để chuyển hóa nó một cách có
lợi ích hoặc buông bỏ, nhờ vào sức mạnh tâm linh nội tại. Trí tuệ Phật giáo dạy
chúng ta làm thế nào để tìm thấy sự an lạc nội tại và giải thoát khỏi những cảm
xúc đối lập bằng cách thực tập thiền và chú tâm nuôi dưỡng chính
niệm.
Chúng ta sử dụng sự chú tâm và chính niệm trong sạch để trải nghiệm
tính đa cảm và các ảo tưởng trong giờ phút hiện tại. Loại thực tập chú tâm này
giúp tâm trí thêm sáng suốt và cân bằng khi nhận diện rõ ràng không chút nghi
ngờ về bản chất mong manh, tạm bợ, tựa giấc mơ của tâm thức, nhìn xuyên suốt mọi
ý tưởng để thấy rằng thực chất của chúng là rỗng không. Bằng cách này, chúng ta
nhìn thấy ngọn đèn một cách rõ ràng, không còn nhìn thấy cái chụp đèn bao quanh
nữa.
Chúng ta học bằng cách trải nghiệm chứ không phải chỉ là khái niệm,
đừng đồng hóa mình với những gì xuất hiện ở tâm thức, và nhận diện đó không chỉ
là cơn giận CỦA TÔI, như vậy chúng ta không tức giận thêm về việc đó, đừng châm
dầu vào lửa. (Khi chúng ta tự nói với mình, “Tôi là một người dễ tức giận, trời
ơi; khi nào cơn giận này mới chấm dứt!” Bằng cách chỉ cần cảm nhận cơn giận
hoặc bất cứ cảm xúc mạnh mẽ nào xuất hiện và trực tiếp trải nghiệm ngay cường độ
của nó, sức nóng của nó, và sự tàn phá của nó – có thể anh cảm nhận trong bụng
sức nóng, hoặc như sự rung động, một năng lượng, và có thể là một chút run
rẩy…
Bằng cách có đủ chính niệm và thăng bằng để trải nghiệm việc này,
không nhất thiết phải có thái độ khó chịu. Như vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta có
thể xem cơn giận ngay giây phút đó như là một năng lượng, như bất cứ kiết sử
hoặc cảm xúc nào đang xuất hiện. Nó không là gì hết, chỉ là một năng lượng xuất
hiện trong phút giây. Chúng ta không nên phán xét hấp tấp, đè nén hoặc nhấn chìm
nó; như chúng ta biết, nó sẽ mang lại những kết quả tiêu cực, không thiện xảo,
bất toàn, có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe về thể chất cũng như tinh thần. Năng lực
cảm xúc, như cơn giận, giống bong bóng căng phồng, nếu như chúng ta ấn một chỗ
xuống, thì chỗ khác lại căng phồng lên. Sức ép đó không có lối thoát, cho đến
khi chúng ta biết buông xả nó. Như vậy, khi chúng ta đè nén hay nhận chìm cơn
giận, nó sẽ làm cho chúng ta bệnh hoạn. Có lẽ cơn giận phồng lên trong nội tạng
của chúng ta, làm cho chúng ta bị loét bao tử, đau đầu kinh niên, áp huyết cao,
ung thư hoặc thận có sạn. Chính vì vậy, quan trọng là không nên đè nén nó khi nó
xuất hiện, nhưng phải đủ sáng suốt và đủ chính niệm để xem nhẹ mọi việc đang xảy
ra.
Các cảm xúc xuất hiện rất nhanh; tâm trạng thì kéo dài. Những trạng
thái tạm thời của tâm thức bị điều kiện hóa, và như vậy, ta có khả năng thành
công để điều kiện hóa nó lần nữa. Xuyên qua sự tu tập, quá trình chuyển đổi thái
độ và các tính cách tiêu cực nội tại được chuyển hóa trở thành tích cực và như
vậy đạt được sự tự chủ, và giải thoát. Trong giây phút trải nghiệm ban đầu đó,
khi cơn giận xuất hiện, nó chỉ là một năng lượng; chưa trở thành bạo động hay
gây hấn. Chúng ta không cần phải sợ hãi nó. Cơn giận chỉ là một năng lượng, một
cảm giác, trong từ ngữ Phật giáo đó là một kiết sử của cảm xúc (nổi giận, sự bao
phủ ô uế). Cơn giận là một năng lượng có thể có lợi và có hại.
Cảm xúc
của cơn giận có sự thông minh của nó. Cơn giận giúp chúng ta thấy rõ việc sai
trái đang xảy ra; thí dụ, nó có thể giúp chúng ta nhận thấy sự bất công và sửa
sai. Có thể giúp chúng ta hành động mạnh mẽ hơn như trong trường hợp gặp phải sự
vi phạm trắng trợn về đạo đức. Bởi vì vậy, trong Mật Tông và Dzogchen – các bài
pháp huyền bí về Kim Cương Thừa (Vajrayana) không có mâu thuẫn, con đường kim
cương của Phật giáo Tây Tạng – chúng ta nói rằng bản chất nội tại của cơn giận,
đó là bản chất thật, đó là sự sáng suốt và chính niệm biết suy xét, phán
đoán.
Cơn giận đến nhanh và đột ngột; nó có thể cắt ngang xuyên suốt, bắt
buộc chúng ta không được lơ là với nó. Vì vậy cơn giận có thể được xem là ích
lợi; nó không có tính cách hủy diệt. Tất cả đều dựa vào cách anh xử sự. Nguyên
tắc cơ bản tâm linh từ xa xưa đã cho rằng không phải việc xảy ra cho chúng ta có
thể định nghĩa cá tánh, sự trải nghiệm và định mệnh của chúng ta; mà là chúng ta
xử sự ra sao khi việc đó xảy đến với chúng ta, đây là điều quan trọng nhất. Đây
là bánh lái nằm trong tay chúng ta. Kẻ đàn áp có thể bỏ tù hoặc sát hại thân
tôi, nhưng không thể đụng tới tâm thức và tâm linh của tôi.
Đức Phật có
nói: “Hãy nhìn thấy bản thân anh nơi kẻ khác, và kẻ khác nơi anh; và như vậy anh
có thể hại ai, anh có thể bóc lột ai?” Như vậy, một trong những cách tốt nhất
để từ bỏ vũ khí nơi tâm là sự liên kết, nhìn thấy mọi người nơi chính ta, và ta
nơi mọi người, và nhìn nhận sự liên kết chặt chẽ, sự tương tức của tất cả chúng
ta. Chúng ta thực tập nhìn thấy kẻ khác nơi bản thân, và bản thân ta nơi kẻ
khác, tìm lấy một nền tảng chung, và liên kết một cách có ý nghĩa xuyên qua
những giao thiệp khác nhau, trong mọi liên hệ hàng ngày. Điều này sẽ thay đổi
rất lớn trong cuộc sống của chúng ta.
Cách thực tập này có thể chuyển đổi
sinh hoạt hàng ngày của chúng ta; thấy ta nơi người, và người nơi ta, xuyên qua
những liên hệ thân thiết, gia đình và bằng hữu, đồng nghiệp và những người quen
biết, kể cả gia súc – tìm lấy nền căn bản chung cho ta và người, và để nhận thấy
chúng ta có những điểm tương đồng và đều có những mong muốn chung.