Allan Lokos là một giáo sĩ đa tôn giáo, một người dạy thiền và một tác giả.  Ông 
là người đồng sáng lập và là giám đốc của Cộng Đồng Hòa bình Và Tôn Giáo, đồng 
thời cũng là người sáng lập và là thầy điều hành của Trung Tâm Thiền Cộng Đồng ở 
thành phố New York.
Thực hành giới luật về lời nói của người cư sĩ, chúng 
ta có thể biết nói đúng thời, đúng việc.
Nhiều năm về trước, khi mới bắt 
đầu tin theo Phật giáo, tôi rất ngạc nhiên là việc thực hành ái ngữ, nói lời dễ 
nghe, rất được coi trọng. Đức Phật đã xem việc chúng ta tiếp xúc, trao đổi, nói 
năng với nhau rất quan trọng đến nỗi Ngài đã đặt chúng ngang tầm với những yếu 
tố quan trọng khác như chánh kiến, chánh tư duy, chánh mạng, chánh niệm, là 
những trụ cột trong Bát Chánh Đạo.
Đức Phật thấy rằng chúng ta luôn phải 
tham gia vào các mối tương quan, bắt đầu bằng mối tương quan quan trọng nhất: là 
mối tương quan với chính bản thân. Khi ngồi thiền, chúng ta có thể nhận ra cách 
chúng ta tự nói với mình như thế nào – đôi khi với lòng từ bi, đôi khi đầy phán 
xét hay thiếu kiên nhẫn. Lời nói của chúng ta là một phương tiện đầy sức mạnh, 
qua đó chúng ta có thể mang đến hạnh phúc hay tạo ra khổ đau.
Chánh ngữ 
bắt đầu bằng việc kiềm chế không nói dối, không nói lời xuyên tạc, thô tục hay 
cộc cằn. Chúng ta không nên dùng lời nói xúc phạm, chống đối, khiếm nhã hay thâm 
độc, mà cũng không nên tham gia vào những câu chuyện phiếm, mông lung hay ngồi 
lê đôi mách. Thực hành được như thế, ta chỉ còn những lời chân thật, tử tế, nhẹ 
nhàng, hữu ích và có ý nghĩa. Lời nói của chúng ta sẽ làm cho người nghe cảm 
thấy được an ủi, khuyến khích, phấn chấn, và chúng ta sẽ là niềm vui đối với mọi 
người chung quanh.
Cốt lõi của chánh ngữ là nói lời chân thật, nghĩa là 
ta cần tránh cả những lời nói dối mà ta nghĩ là vô hại.  Chúng ta cần nhận ra 
tính chất giả dối qua những hình thức như phóng đại, vô căn cứ, hay tự thổi 
phồng mình. Các loại tà ngữ này thường phát khởi từ nỗi lo sợ rằng tự bản thân 
chúng ta chưa đủ tốt – là điều không bao giờ đúng. Sự chân thật phải bắt đầu từ 
nơi bản thân chúng ta, vì thế thực hành chánh ngữ phải bắt đầu bằng việc chân 
thật với chính mình.
Đức Phật khuyên chúng ta không nên ngồi lê đôi mách 
(gossip), vì Ngài biết rất rõ những hậu quả tai hại mà tà ngữ này có thể mang 
đến. Chuyện kể có một người sau khi thấy những tai hại của việc mình ngồi lê đôi 
mách chuyện người hàng xóm, đã đến cầu cứu một vị đạo sĩ. Vị đạo sĩ bảo người đó 
ra chợ mua một con gà mang về cho ông, nhưng khi đi trên đường hãy nhổ bỏ hết 
các lông gà. Khi người nọ trở về với con gà trụi lông, vị đạo sĩ bảo ông ta đi 
nhặt lại những lông mà ông đã thả bay đi. Người đó trả lời rằng điều đó khó thể 
thực hiện vì hiện giờ có lẽ đám lông gà đã bay khắp xóm làng. Vị đạo sĩ gật gù 
đồng ý, và người kia hiểu ra rằng: chúng ta khó thể lấy lại lời mình nói. Như 
thi sĩ Thiền Basho đã viết:
Chuông chùa đã lặng,
Mà tiếng ngân còn 
vang khắp đồi hoa.
Ngồi lê đôi mách (đàm tiếu) là nói về một người đang 
vắng mặt. Không kể là nói xấu hay tốt. Nếu chúng ta cần nói về một người không 
có mặt, hãy nói về họ như thể họ đang có mặt. Một hay hai lần trong năm, tôi 
thường dành ra một khoảng thời gian nhất định - một tuần hay một tháng - tôi 
thực hành không nói về bất cứ ai không có mặt.  Tôi nhận thấy là mình đỡ mệt 
hơn, và cũng thấy thật phấn chấn. Mỗi lần như thế, tôi nhận thấy rằng hiệu quả 
của việc thực hành chánh niệm này còn ở mãi trong tôi nhiều tuần lễ, hay đôi khi 
nhiều tháng sau đó. Khi tôi bắt đầu muốn nói về ai đó, hình như có một tiếng còi 
báo động trong tâm: ‘Đừng nói chuyện người’.
Một lời khuyên về lời trêu 
chọc – Chớ nên làm! Việc trêu chọc (teasing) lúc nào cũng là nhắm vào một ai đó, 
và thường gây tổn thương cho người đó nhiều hơn ta tưởng.  Nói ngắn gọn là việc 
trêu chọc, đùa cợt gây ra đau khổ.  Chúng ta nên dùng năng lực mà ta phí phạm 
vào việc chọc ghẹo để tạo ra một lời khen chân thành.
Chánh ngữ thường đi 
kèm với một kỹ năng giao tiếp khác là sự lắng nghe. Dầu lời nói có vụng về đến 
đâu, người nói vẫn cố gắng chuyển đạt một điều gì đó. “Con ghét cha lắm!”, câu 
nói đó của một đứa trẻ đang trong cơn giận dữ, thực sự có ý nghĩa gì? “Từ ngày 
bạn có đôi, bạn không còn thời gian dành cho tôi nữa”, câu nói đó của một người 
bạn cũ hàm ý gì? Những lời hờn giận đó nhằm chuyển tải một ước muốn được quan 
tâm đến nhiều hơn.  Khi chúng ta thực tập lắng nghe, hãy dành thời gian để thở, 
như thế chúng ta có thể tránh không phản ứng theo hoàn cảnh khiến khổ đau phát 
sinh, thay vào đó hãy phản ứng với lòng bi mẫn đối với những gì chứa đựng bên 
trong những lời cộc cằn đó.  Chúng ta có thể vỗ về đứa trẻ bằng tình thương của 
mình hay khẳng định với bạn ta rằng anh/chị ấy vẫn quan trọng đối với ta và ta 
sẽ dành nhiều thời gian cho họ hơn.
Nhiều lúc chính sự im lặng thanh cao 
(noble silence) là lời nói tốt đẹp nhất. Vài năm trước tôi có hướng dẫn một đạo 
tràng hằng tuần. Một quy ước của đạo tràng là không ai được có ý kiến về những 
điều mà một thành viên khác trong đạo tràng đã nói trong lúc thảo luận. Ngay cả 
những lời bày tỏ sự đồng ý, hay đồng cảm như “Tôi đồng ý với anh X”, hay “Em tôi 
cũng có hoàn cảnh như thế”. Tất cả những gì chúng tôi cần làm là lắng nghe. Với 
thời gian, chúng tôi nhận ra tâm mình thường bận rộn chuẩn bị phản ứng trong khi 
chúng tôi ngỡ rằng mình đang lắng nghe.  Khi biết rằng chúng ta không phải phản 
ứng đã thay đổi cách mà chúng tôi lắng nghe.
Có lần, một phụ nữ trẻ gia 
nhập đạo tràng của chúng tôi, và trong lúc thảo luận, cô tâm sự rằng chồng cô 
vừa mất do bịnh ung thư khi chỉ mới 37 tuổi. Những tuần lễ tiếp theo, khi cô nói 
cô vẫn còn sụt sùi. Đôi khi chúng tôi cũng muốn khóc khi lắng nghe cô, nhưng 
không thể nói lời nào. Phải chứng kiến một người trải tất cả lòng ra để tâm sự 
và thấy rằng người ấy đang rất đau khổ, nhưng không được bày tỏ phản ứng gì, là 
một cảm giảc thật lạ lùng.
Nhưng một ngày kia, cô gái cho chúng tôi biết 
cô đã gia nhập đạo tràng vì cô tìm thấy nơi nhóm chúng tôi điều mà cô không tìm 
được ở những nhóm bạn khác. Chúng tôi đã để cô trải nghiệm và bày tỏ nỗi đớn đau 
của mình mà không phán đoán hay đưa ra những giải pháp tạm thời. Chúng tôi đã có 
mặt vì cô, làm chứng nhân cho nỗi buồn khổ của cô, bao bọc cô bằng sự cảm thông 
âm thầm. Thật sự sự có mặt của ta cho một ai đó là món quà lớn nhất mà ta có thể 
trao tặng cho họ. Đôi khi người ta cần bày tỏ tình cảm buồn bã, và sự im lặng 
thanh cao có thể thực sự rất quý giá.
Ngày nay khi nói đến chánh ngữ, 
chúng ta cũng phải nghĩ đến một khía cạnh mà ở thời Đức Phật không hiện hữu đó 
là: thư điện tử (email). Khi điện thoại trở nên phổ biến, hầu hết chúng ta trở 
thành những người bỏ thói quen viết thư. Những người mà từ lâu đã bỏ quên thói 
quen viết những lá thư sâu lắng, giờ lại được trang bị với khả năng kỹ thuật để 
tuôn ra bao lá thư điện tử. Vì thế hãy chánh niệm khi viết.
Bước quan 
trọng nhất để phát triển chánh ngữ là suy nghĩ trước khi nói (hay viết). Đó là 
chánh niệm về lời nói.  Một số điều khác cũng có thể làm tốt hơn những mối liên 
hệ của chúng ta bên cạnh sự phát triển của chánh ngữ. Sự im lặng thanh cao mang 
đến cho ta, và những người quanh ta, khoảng không gian mà chúng ta cần để có thể 
nói lời dễ nghe. Khi chúng ta có thể nói năng khéo léo, cẩn trọng hơn, thì bản 
ngã – cái ngã đầy từ bi, đầy tình thương của ta - sẽ dễ dàng hiển lộ. Vì thế 
trước khi nói, hãy dừng lại, thở, và thử nghĩ xem điều mình nói có tốt hơn là sự 
im lặng.