Lama Zopa Rinpoche sinh năm 1946 ở Thami, trong vùng núi Everest của Nepal,
không xa hang Lawudo, là nơi mà bậc tiền bối của Ngài, Lama Thubten Yeshe, đã
thiền định trong suốt 20 năm cuối đời. Lama Zopa Rinpoche là vị lãnh đạo tâm
linh của Tổ Chức Bảo Tồn Truyến Thống Đại Thừa (Foundation for the Preservation
of the Mahayana Tradition) và coi sóc mọi hoạt động nơi đó.
Lama Zopa
Rinpoche là một vị thầy khả kính đã dạy về con đường giải thoát cho hàng ngàn
người, và có trên trăm người đã trở thành tu sĩ.
“Mỗi ngày hãy tu tập
hạnh Bồ tát. Người đời không thể nhìn thấy được tâm bạn, cái họ có thể thấy được
là sự thể hiện của hành động và lời nói nơi thân bạn. Hãy canh giữ chúng như thể
bạn là người gác cửa, người bảo vệ, hay như thể bạn là cha mẹ chăm sóc cho con,
hoặc là người thầy và tâm bạn chính là đệ tử của mình”. (Lama Zopa
Rinpoche)
Một điều rất quan trọng mà chúng ta trong lúc được thân người
nên ráng thực hành, đó là: ráng tu tập để được an bình trong tâm trí
Điều
hiển nhiên là hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài. Chúng ta
có thể trắc nghiệm được điều này ngay trong cuộc sống hiện tại.
Hạnh phúc
của chúng ta tùy thuộc không những từ những điều kiện bên ngoài mà còn cần đến
những điều kiện ở bên trong. Nếu những điều kiện bên ngoài có thể cho chúng ta
một hạnh phúc miên viễn, thì những người giàu có chắc hẳn được nhiều an lạc; và
những ai không giàu sẽ không sung sướng hay hạnh phúc. Nhưng cuộc sống cho thấy
rằng: có bao người sống rất hạnh phúc nhưng chẳng giàu; trong khi bao kẻ giàu
sang lại đau khổ.
Chẳng hạn ở Ấn Độ, có rất nhiều nhà thông thái, nhiều
đạo sĩ cao thâm, và bao Phật tử sống một cuộc đời rất khiêm nhường nhưng đầy an
lạc. Lúc mà họ hạnh phúc nhất là lúc mà họ từ bỏ sự chạy theo cái tâm lăng xăng
lộn xộn. Sự từ bỏ ngã mạn, giận dữ, si mê, bám víu, v...v... Càng xa lánh những
thứ này thì trong tâm họ càng an lạc.
Những đạo sĩ nổi tiếng như Naropa
của Ấn Độ và Milarapa của Tây Tạng, chẳng có gì hết nhưng tâm hồn họ tràn đầy an
lạc. Họ đã từ bỏ cái tâm lăng xăng, nguyên nhân của những đau khổ.
Chính
sự giải thoát, giác ngộ đã đem hạnh phúc lại cho họ. Như Milarapa, có lúc nhịn
ăn cả nhiều ngày, sống trong hang đá, nhưng vẫn được xem là người hạnh phúc nhất
trần gian. Bởi vì ông đã từ bỏ ba thứ độc: tham, sân, si; và do đó được an lạc,
hạnh phúc. Khi mà cái tâm lăng xăng lộn xộn không còn nữa, thì hạnh phúc, an lạc
hiện hữu.
Nếu hạnh phúc tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài thì
những nước giàu có như Mỹ chắc hạnh phúc lắm lắm. Bao người cố gắng bắt chước Mỹ
quốc vì nghĩ rằng giàu như thế mới hạnh phúc. Riêng tôi nhận thấy rằng tôi tìm
được an lạc nơi những quốc gia thiên về tâm linh như Ấn Độ và Nepal.
Ở
những quốc gia này, người ta dễ tìm được an lạc. Vì Ấn Độ là một nước tâm linh,
nên ta dễ tìm được sự bình an nơi tinh thần. Khi mà bạn nhìn thấy những xã hội
vật chất và những người sống trong xã hội đó, tinh thần bạn rất dễ bị dao động.
Khi mà vật chất bành trướng thì con người càng lúc càng bận rộn và nhiều vấn đề
bắt đầu xuất hiện. Con người không còn thời gian để nghỉ ngơi, người ta bận rộn,
lo lắng, và bất an. Nếu hạnh phúc hoàn toàn tùy thuộc vào những yếu tố bên
ngoài, thì những đất nước dư ăn dư mặc như Thụy Sĩ hay Mỹ đã thực sự được an
lạc, hạnh phúc; họ đã không cãi nhau, đánh nhau, và không có bạo động. Nhưng sự
thực không phải vậy. Như thế có nghĩa là có điều gì đó thiếu sót.
Chứng
tỏ rằng họ đã sơ sót trong việc tìm kiếm hạnh phúc.
Về phương diện vật
chất, những nước Âu, Mỹ là hàng đầu thế giới, nhưng có biết bao là vấn đề đang
tiếp tục hủy hoại sự an lành và hạnh phúc của họ.
Họ đã thiếu sót cái
gì? Thưa, đó là sự trau dồi bản tâm.
Họ đã lo chạy theo những thứ bên
ngoài và quên mất bản tâm, quên trau dồi mặt tinh thần. Những nước Tây phương
tiến triển rất nhanh về mặt vật chất; nhưng vì mải lo bên ngoài mà họ quên hẳn
sự phát triển về mặt tâm linh.
Sự phát triển vật chất tự nó không phải
là không tốt, nhưng sự phát triển về tâm linh còn quan trọng gấp mấy lần. Hơn
nữa sự phát triển về mặt bản tâm có hiệu quả kiến tạo hạnh phúc lâu dài hơn hết.
Bạn không thể nào tìm được an lạc khi mà bản tâm bạn bị bỏ quên. Khi mà lòng từ
được tăng trưởng thì bạn dễ tìm được sự an bình trong tâm hồn. Làm sao có thể so
sánh được sự giàu có vật chất với lòng từ bi bác ái, sự yêu thương, nhẫn nại, sự
diệt trừ bạo động, và sự từ bỏ cái tâm lăng xăng lôn xộn. Cho dù bạn có một núi
kim cương cũng không thể nào so sánh được với sự bình an trong tâm hồn. Kẻ sở
hữu nhiều châu báu vẫn bị chi phối bởi sân hận, tham lam... Nếu có ai đó mắng
họ, tức thì họ nổi giận và muốn chửi lại hay đánh lại. Một người biết tu tập thì
không phản ứng như thế. Họ sẽ tự nói: "Kẻ kia mắng mình làm mình buồn khổ, và
nếu mình mắng lại họ thì họ cũng sẽ buồn, sẽ khổ như mình. Vì đã biết tu tập từ
tâm, nên không mắng chửi lại." Nếu biết nghĩ như thế thì sẽ không làm ai đau
khổ. Khi mà bạn bè của tôi nói hay làm điều gì mà tôi không thích, sự khó chịu
và bực bội bắt đầu nổi lên trong lòng, tôi muốn nói lại để làm cho họ đau; nhưng
tôi tự chủ lại và tự ngẫm, "Tôi và họ đều muốn tránh đau khổ và mong hạnh phúc.
Thế thì tôi không nên nói hay làm những điều gây buồn phiền cho họ. Đó là tôi
tu." Nhờ nghĩ như thế, cơn giận liền tan biến như bọt nước bong bóng. Ban đầu
bong bóng tựa như là một khối đá rắn chắc, nhưng thình lình nó tan biến. Lúc đầu
tựa như là chúng ta không thể thay đổi được quan niệm, nhưng nếu biết áp dụng
phương pháp đúng cách, thì cơn giận tức khắc tan biến như bọt bong bóng nước.
Đâu còn điều gì để mà tức giận nữa.
Bạn nên tập kiên nhẫn, đừng để cho
cơn giận bốc lên, nhớ rằng cơn giận làm cho tâm trí bất an, hủy hoại sự thanh
bình của chính bạn và luôn cả những người chung quanh cũng bị vạ lây. Cơn giận
làm mặt chúng ta xấu đi. Không cần biết bạn đẹp như thế nào, một khi cơn giận
xuất hiện thì cho dù có điểm trang khéo đến đâu, bạn cũng không thể che giấu
được sự xấu xí, hằn học trên gương mặt. Bạn có thể nhận diện được sự giận dữ
trên khuôn mặt mọi người. Bạn sẽ sợ hãi khi mà phải đối diện với một kẻ đang sân
hận. Khuôn mặt họ lộ vẻ dữ tợn, đó là phản ảnh của sự tức giận từ bên trong. Đó
là một năng lượng có những rung động rất xấu, chúng ta nên từ bỏ nó. Vì sân hận
làm cho mọi người bất an và mất hạnh phúc. Sự thực hành đúng chánh pháp, sự
thiền định đem lại lợi ích cho mọi người. Sự thiền định giúp cho chúng ta và mọi
người chung quanh được an lạc. Một hành động đúng theo chánh pháp làm lợi ích
cho mình, cho người. Như tôi đã nói ở trên, sự nhẫn nại quý giá gấp triệu lần
núi kim cương. Làm sao có được sự bình an của tâm hồn nếu chỉ lo góp nhặt kim
cương? Bạn còn có thể bị nguy hiểm đến tánh mạng nếu có quá nhiều kim cương.
Không thể nào chúng ta có thể so sánh được sự tốt lành của bản tâm với sự sung
mãn về vật chất.
Mọi người trong chúng ta đều muốn an vui, hạnh phúc; do
đó chúng ta phải thực hành chánh pháp. Thực hành chánh pháp cho đúng nghĩa không
phải là tụng kinh nhiều, lễ lạy luôn luôn và mặc áo tràng. Thực hành chánh pháp
là làm tăng trưởng tâm hồn, làm cho cái tâm được trong sạch hơn... Chúng ta có
rất nhiều những nhân tố xấu bên trong như: tâm lăng xăng lộn xộn, si mê, ngu
dốt, sân hận... và những nhân tố tốt bên trong như: tình thương, lòng bác ái,
v.v... Chúng ta ai ai cũng có sẵn những nhân tố tốt cũng như xấu. Thực hành
chánh pháp là làm tăng trưởng những cái tốt, diệt trừ những cái xấu. Đây là một
cách thực hành chánh pháp mà ta nên tu tập. Có rất nhiều cấp bậc đau khổ, vì vậy
chúng ta cần sự bảo vệ tối đa cho chính mình. Chánh pháp như là một sợi dây
thừng được quăng ra cho ai đó đang sắp rơi vào vực thẳm. Chánh pháp bảo vệ và
giữ gìn một người, không cho họ rơi vào những thế giới đau khổ - thế giới của
địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Hơn nữa, chánh pháp bảo giúp chúng ta không rơi
vào ba đường ác khi chúng ta còn trong vòng sinh tử luân hồi. Chánh pháp giúp
chúng ta phân biệt được chính tà và bảo vệ chúng ta cho đến lúc chúng ta đạt
giải thoát, được giác ngộ thành Phật; và sự an lạc tối thượng là đây. Cái chết
được tiếp nối ở một giai đoạn gọi là "trung ấm" (Bardo-Tây Tạng), sau giai đoạn
này chúng ta thác sanh một trong sáu thế giới - Thọ sanh, sống, chết, giai đoạn
trung ấm, và đầu thai. Đây là một chu kỳ không ngừng nghỉ, chúng ta chạy quanh,
lặp đi lặp lại những kinh nghiệm buồn vui lẫn lộn, vì nhận thức sai
lầm.
Khi chúng ta thực hành chánh pháp, chánh pháp bảo vệ và dẫn dắt
chúng ta khỏi những lầm lẫn tai hại khi ta còn trong vòng sinh tử. Chánh pháp có
nhiều trình độ, và luôn dẫn dắt, bảo vệ những ai thực hành nghiêm chỉnh. Cơ thể
và tâm trí của chúng ta luôn làm chúng ta đau khổ. Tại sao như vậy? Bởi vì tâm
trí chúng ta chưa được giải thoát khỏi vô minh. Và khi còn vô minh thì tâm trí
và cơ thể đều chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Cơ thể chúng ta "khổ" khi bị nóng quá,
lạnh quá, đói khát, sanh, bịnh, già, chết, v.v...
Còn có thân, thì chúng
ta còn chưa thoát được những nỗi khổ này. Những hạt giống đau khổ đã nằm sẵn ở
trong mỗi chúng ta. Sự luân hồi sinh tử của chúng ta là do nơi thân này, tâm
này. Thân và Tâm này luôn làm chúng ta lo lắng và không bao giờ để cho chúng ta
yên tịnh. Thân và Tâm cộng thêm Vô Minh, và bắt đầu từ đó là Nghiệp được tạo ra,
rồi Nghiệp đó lại dẫn dắt chúng ta đi trong vòng luân hồi.
Luân hồi là
một vòng tròn như bánh xe. Nó quay như thế nào? Những hợp thể, thân và tâm, tiếp
tục từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Những kết tập của kiếp trước và kiếp
sau liên tục, không gián đoạn. Chúng tạo ra một vòng tròn tiếp nối, giống như là
người đi xe đạp vậy.
Bản ngã cũng thế. Nó dắt chúng ta chạy quanh từ
kiếp sống này sang kiếp sống kế tiếp; đầu thai trở lại theo nghiệp lực đã gieo.
Cái nghiệp mà ta đã tạo ra nơi thân và tâm. Dựa vào những dự kiện đã huân tập mà
ta thọ thai nơi cõi người, súc vật, trời hay địa ngục... Những hợp thể đưa dẫn
chúng ta đi chẳng khác nào con ngựa chở người cỡi nó.
Từ vô thỉ đến nay,
trải qua bao nhiêu kiềp sống, chúng ta đã không tu tập để tự giải thoát khỏi
những phiền não, nghiệp lực. Do đó, thân và tâm chúng ta lúc nào cũng trong vòng
đau khổ, luôn lặp đi lặp lại những lỗi lầm đã vấp phải. Nếu chúng ta thoát được
phiền não thì không khi nào chúng ta lại lặp lại những đau khổ đã trải
qua.
Một khi mà giải thoát được khỏi vòng sinh tử, tức là khổ đau chấm
dứt. Khi không phải trở lại mang thân sinh tử thì đâu cần phải có nhà cửa, quần
áo, thức ăn, và những nhu cầu cần thiết khác.
Đâu có lý do gì để lo
lắng, sắm sửa, góp nhặt của cải, chạy theo danh lợi để có cả trăm bộ quần áo,
mặc vào những dịp khác nhau, để có cả trăm đôi giầy, làm việc đầu tắt mặt tối
v...v...
Không có thân thì đâu có những vấn đề này.
Nhưng vì có
thân này mà phải lao tâm, lao lực suốt cuộc đời, từ lúc "mang thân" cho đến lúc
"bỏ thân"; cũng chỉ lo có bấy nhiêu.
Lạt ma Tsong Khapa, một đạo sư Tây
Tạng, được tôn sùng như Bồ tát Văn Thù Sư Lợi (Manjushri), vị Bồ tát của Trí
Tuệ, trên bước đường tu tập có viết như sau: "Nếu một người không bao giờ nghĩ
đến sự tiến hóa trong vòng luân hồi, thì không khi nào họ có thể cắt đứt được
gốc rễ của sinh tử."
Ví như một người hay bệnh vì ăn những thức ăn không
hợp với thể tạng của họ; nếu anh ta không chịu để ý để tránh, mà cứ ăn hỗn tạp
thì cho dù có uống bao nhiêu thuốc cũng sẽ không khỏi bệnh.
Cũng như
vậy, nếu chúng ta không chịu tìm hiểu đường đi nước bước của vòng luân hồi, thì
làm sao chúng ta có thể đạt được Niết Bàn.
Muốn chứng đạt Niết Bàn phải
cắt gốc sinh tử. Muốn thành công trong việc cắt gốc sinh tử thì phải biết tu tập
theo chánh pháp. Có nghĩa là chúng ta phải nhận diện được sự vận hành của vòng
luân hồi, những nguyên nhân nào đã đưa chúng ta vào vòng sinh tử. Nhờ hiểu rõ
ngọn ngành, chúng ta có thể thực hiện được những điều cần thiết để thoát vòng
sinh tử.
Lạt ma Tsong Khapa tóm tắt như sau: "Tôi là một đạo sĩ đã thực
tập như vậy để được giải thoát; và tôi yêu cầu tất cả những ai đang trên đường
giải thoát nên thực tập y như vậy." Vị đạo sư này đã giải thoát và khuyên chúng
ta nên thực tập như người.
Điều quan trọng trước tiên là chúng ta phải
có ước muốn được thoát khỏi luân hồi; kế đến là nhận diện luật tiến hóa trong
vòng sinh tử và cuối cùng thì cắt gốc sinh tử.
Để hiểu rõ về sự tiến hóa
của chu trình sinh tử, chúng ta phải hiểu cặn kẽ về mười hai mắt xích, và những
căn nguyên của chúng phụ thuộc lẫn nhau.
Mười hai mắt xích này là nguyên
nhân dẫn chúng ta chạy quanh vòng sinh tử. Trong quá khứ, vì Vô Minh che đậy,
chúng ta tích lũy Nghiệp để rồi thọ sanh ra thân này. Trong cơn hấp hối, một
tích tắc trước khi lìa đời, chúng ta còn bám víu, không muốn bỏ cái thân, không
muốn chết ... Khi sang qua thân trung ấm, và kế đến là vào bào thai mẹ. Trứng
lớn dần và những cảm giác bắt đầu tăng trưởng. Sau đó, là sự xúc chạm, phản ứng
của những cảm thọ xuất hiện. Thế là sự đầu thai bắt đầu... cho đến lúc chúng ta
già... và những gì còn lại chỉ là kinh nghiệm của cái chết.
Trong cuộc
sống hiện tại không có an lành; từ lúc sanh ra cho đến lúc chết, chúng ta luôn
luôn phải chịu đau khổ: đau đớn lúc chào đời, không hài lòng với hoàn cảnh, gặp
cảnh trái ngang, có nhiều lo lắng, sợ phải xa lìa người thân, sợ mất của, sợ
bệnh hoạn, sợ tuổi già và sợ chết.
Tất cả những vấn đề này là đều từ nơi
nghiệp lực mà ra. Nghiệp có được là từ vô minh. Bởi thế cái gốc rễ của vòng sinh
tử đều bắt đầu từ Vô Minh. Sự vô minh bắt đầu bằng cái "TA”. Cái bản ngã này
không có thật. Nhưng vì vô minh, chúng ta xem nó là thật, là thật hiện hữu. Vô
Minh là nguyên nhân của tất cả khổ đau. Chúng ta chỉ được Niết Bàn khi mà phá bỏ
được Vô Minh - gốc rễ của sinh tử. Nếu không nhổ được gốc Vô Minh, thì sẽ không
có Niết bàn. Muốn được Niết Bàn phải nhổ gốc sinh tử, do đó chúng ta phải thực
hành theo Chánh pháp. Một khi gốc sinh tử được cắt đứt thì Niết Bàn hiện tiền.
Nhưng mà một khi đạt được giải thoát, ta phải nghĩ đến những chúng sinh khác,
trong đó có cha mẹ, anh chị em trong nhiều đời nhiều kiếp của chúng
ta.
Không có một chúng sanh nào không tử tế với chúng ta dù trong kiếp
này hay kiếp khác. Ngay trong hiện tại, ít nhiều hạnh phúc của chúng ta đều tùy
thuộc vào sự tử tế của những người chung quanh. Không hẳn chỉ có loài người, mà
còn có những chúng sanh khác bị giết vì chúng ta, và một số còn làm việc cực
nhọc để cho chúng ta được sung sướng. Chẳng hạn muốn có lúa gạo, một số côn
trùng bị giết, một số người phải làm việc dưới ánh nắng gay gắt, v...v... Do đó
sự sung sướng hàng ngày của chúng ta luôn tùy thuộc vào sự tử tế của các chúng
sanh khác. Được làm người, đây là cơ hội để chúng ta trả những ơn đó. Những con
vật thì ngu dốt và không hiểu chánh pháp. Chúng ta làm người có được cơ hội để
học tập và khi đạt giác ngộ thì chúng ta giúp những chúng sanh này được giải
thoát. Chúng ta nên suy ngẫm như sau: "Tôi nên ráng tu tập đạt đạo giải thoát để
làm lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh đã tử tế với tôi, và giúp đỡ tôi rất
nhiều. Những chúng sanh này đang đau khổ, trong đó biết đâu lại chẳng có cha mẹ
nhiều đời nhiều kiếp của tôi. Là con, tôi phải có bổn phận giúp đỡ... Con đường
chánh pháp là tâm từ. Và tâm từ rộng lớn là tâm Bồ Tát, với ý nghĩ muốn thành
Phật để độ chúng sanh thoát khổ. Và đây là tâm từ mà chúng ta nên phát
triển.