Jacqueline Mandell, dạy thiền và hướng dẫn về khả năng lãnh đạo ở Portland, 
Oregon.
Đôi khi người ta hỏi tôi, “Giờ chị đã làm mẹ, chị còn hành thiền 
nữa không?” Câu hỏi đó phủ nhận việc làm mẹ cũng là một cách để hành thiền. 
Chúng ta thường nghĩ rằng việc hành thiền chỉ có thể xảy ra trong các thiền 
đường, ở các trung tâm thiền, rằng chúng ta chỉ có thể tỉnh thức khi ngồi trên 
gối thiền, ở một nơi yên tĩnh nào đó. Thiền không chỉ là sự thực tập theo bài 
bản. Thử thách cam go không chỉ là khi ta tọa thiền, mà là làm thế nào để mang 
tâm chánh niệm đó vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Tâm hoàn toàn tỉnh thức 
không có niệm phân biệt, không có ý niệm về ngã.  Nó không liên hệ gì đến cái 
nhìn nhị nguyên; chỉ có giây phút không phân tâm, giây  phút hiện tại trước 
mặt.
Tôi không hề dự tính sẽ có hai con nhỏ. Tôi chỉ định có một đứa, để 
lo cho nó và tiếp tục tu tập. Nhưng cuối cùng tôi sinh đôi.
Hai năm đầu 
tiên rất cực khổ, giống như là cách tu khổ hạnh của dòng thiền Rinzai. Thật vậy, 
phải cho đứa này bú mớm, rồi sang đứa kia, làm tôi thêm bận rộn. Nhiều sáng, tôi 
còn không có thì giờ rửa mặt hay đi vệ sinh. Tiếng các con tôi khóc là những hồi 
chuông và thay tã cho chúng là câu trả lời của tôi đối với một công án. Chồng 
tôi và tôi đã thay mười hai ngàn tấm tã, giống như những hạt chuỗi 
mala.
Tuần lễ đầu sau khi chúng tôi mang các con về nhà, một người bạn 
lái xe đến thăm và nói, “Tôi đến để phục vụ bạn đây.” Cô đã ở lại đúng một tuần 
- nấu ăn, dọn dẹp và chăm sóc hai đứa bé khi tôi có việc ra ngoài. Việc này được 
gọi là “chăm sóc bà mẹ” và tôi rất muốn giới thiệu nó vào danh sách các dịch vụ 
xã hôi. Phật giáo đã làm rất nhiều điều tuyệt vời: cho hòa bình, cho bệnh nhân 
AIDS, cho môi trường, nhưng Phật giáo có quan tâm đến các bà mẹ không, có dịch 
vụ chăm sóc các bà mẹ, chăm sóc trẻ cho các bà mẹ không? Nếu có, thì Phật giáo 
càng phục vụ chúng sanh nhiều hơn nữa.
Trong khi Phật giáo đề cao đời 
sống xuất gia, tu tập ở các tu viện, thì việc tôi chọn lựa để trở thành mẹ cũng 
đòi hỏi nhiều suy tư. Đối với tôi, được làm mẹ là một điều tuyệt vời, giữa cha 
mẹ và con cái có một mối liên hệ thắm thiết. Khi các con tôi được sinh ra, tôi 
biết rằng chúng đã là những đứa trẻ có tâm linh, đã thông minh, đã khoẻ mạnh.  
Tôi chỉ cần dạy thêm cho chúng tình thương và sự chân thật. Đó là mục đích vô 
cùng quan trọng của các bậc cha mẹ.
Khi phải ở nhà nuôi con, tôi cũng rất 
bức xúc, cảm thấy như mình vô dụng. Tôi đã nghĩ, “Mình đang làm gì đây? Xã hội 
đâu có quan tâm gì đến các bà mẹ? Có ai trả lương hay khen thưởng gì các bà mẹ 
đâu?” Tuy nhiên tôi đã học hỏi được rất nhiều từ các con tôi. Tôi cảm thấy hãnh 
diện vì điều đó. Khi ta vun trồng tình thương yêu cho trẻ, thì việc cho và nhận 
là cái mà chúng ta luôn phải thực hành.
Một số bạn bè và tôi quyết định 
thành lập một nhóm tu thiền dành cho các bà mẹ, để họ có thể hành thiền với cả 
con cái. Chúng tôi cũng gặp gỡ được đôi ba lần, và mỗi lần gặp thì đều khác 
nhau. Lúc đầu chúng tôi quyết định hành thiền ở một phòng, để các con ở một 
phòng khác, nhưng mấy đứa trẻ khóc la không chịu nổi. Vì thế chúng tôi quyết 
định sửa đổi, nhưng nếu chỉ có hai bà mẹ thì hơi khó. Tôi phải để một bé tự chơi 
một mình, còn tôi thì hành thiền với đứa còn lại trên đùi mình. Tôi nghĩ là 
không kết quả mấy. Nhưng một ngày kia, tôi thấy con gái mình xếp tất cả các con 
thú bông thành hàng và bảo rằng tất cả đang hành thiền.  
Tôi cũng dạy 
các con không làm hại các sinh vật khác, không sân hận, không ảo tưởng. Tôi dạy 
chúng tình thương yêu ngay cả trước khi chúng biết nói. Chúng tôi sống trong một 
vùng có nhiều côn trùng như nhện, bò cạp, rết và đôi khi có cả rắn.  Khi thấy 
chúng, chúng tôi thường bắt bỏ vào một cái ly, rồi mang thả ra bên ngoài. Ngay 
cả một con ong hay một con ruồi bay vào nhà, chúng tôi cũng giúp chúng tìm đường 
ra.  Khi nào thấy một con côn trùng nào đó, các con tôi cũng gọi mẹ mang ly ra 
để đem côn trùng đi nơi khác. Chúng thực sự học được lòng thương yêu côn trùng 
và đã biết phân biệt các loài khác nhau. Đó là một cách để dạy con cái tình 
thương yêu chúng sanh, không làm hại đến sinh vật nào dù nhỏ nhoi như côn 
trùng.  
Tôi cũng dạy chúng không có lòng tham đắm. Khi đến các tiệm đồ 
chơi, chúng có thể cầm chơi, rồi để lại mà không đòi cha mẹ phải mua. Khi nói 
đến đi mua sắm, đối với các con tôi chỉ có nghĩa là đi mua thực phẩm cần thiết.  
Tôi dạy chúng cách quyết định nhưng không bám víu vào sự vật, và có những quyết 
định khôn ngoan mà không sợ hãi. Trước khi trở thành mẹ, tôi đã dạy thiền một 
thời gian.  Tôi nhớ rằng sư phụ của tôi, bà Dipa Ma, chỉ sống trong một căn 
phòng ở Calcutta mà cũng có thể dạy thiền ở nhà.  Vì thế một ngày kia, tôi nghĩ, 
“Đúng vậy, tôi cũng có thể dạy ở nhà”. Chồng tôi mang mấy đứa con ra ngoài, và 
tôi biến  phòng khách thành một nơi có thể hành thiền. Nhờ thế, tôi không phải 
tách biệt công việc và con cái ở nhà.  Đôi khi người ta hỏi tôi làm thế nào để 
cân bằng giữa tình thương yêu con cái mà không bám víu vào chúng. Thật sự, công 
phu tu tập của tôi bấy lâu nay là phát triển tâm không bám víu, và sự ra đời của 
các con cũng là một quá trình rèn luyện cho tôi tâm buông xả. Ngay trước khi các 
con được hai tuổi, tôi đã bắt đầu nhờ người giữ chúng để tôi có thể đi dạy hai 
lớp thiền mỗi tuần. May mắn là tôi đã tìm được một vị bảo mẫu rầt có trách 
nhiệm, ân cần, thương yêu, chăm sóc các con tôi hết lòng. Các con tôi được có 
kinh nghiệm sống ở một khung cảnh gia đình khác, giống như trẻ em ở các quốc gia 
khác thường được ông bà, dì cậu, cô chú, chăm sóc ngay từ nhỏ. Mỗi tháng, tôi 
đều để các con tôi ở nhà một mình với bà bảo mẫu. Vừa rồi, lần đầu tiên tôi đã 
đi dự một khóa thiền dài bốn ngày. Quá trình này là một kinh nghiệm rất tốt cho 
cả các con tôi và tôi.
Lúc đầu tôi cũng do dự khi phải để các con ở nhà, 
nhưng các bạn tôi đã khuyến khích tôi trở lại công việc dạy thiền, sau khi tôi 
đã là mẹ. Cũng rất tốt khi các con tôi có được một nguồn yêu thương khác, vì ở 
thời điểm đó tôi đang cai sữa cho chúng. Tôi nhận thấy rằng con cái cũng có 
nghiệp riêng của chúng; chúng ta không thể luôn dắt chúng theo bên cạnh mình và 
luôn tạo ra những môi trường lý tưởng cho chúng. Nghiệp lực có sự vận hành riêng 
của nó và sẽ đưa đẩy ta đến một số quyết định tùy theo duyên nghiệp.
Đôi 
khi tôi dẫn các con đến những nơi tôi dạy và chúng ở cả ngày ở đó. Chúng đã nhận 
ra được hình tượng Đức Phật và thường xin ăn chuối, táo, lê và những thứ cúng 
trên bàn Phật. Chúng cũng có những sự hiểu biết và liên hệ riêng. Bất cứ khi nào 
thấy hình Phật, chúng đều chấp tay lại vái chào.
Ngay cả khi tôi dạy hay 
hướng dẫn các khoá thiền dài ngày ở các trung tâm thiền, chúng vẫn có thể gọi 
tôi khi chúng cần. Nhưng tôi bắt đầu tự hỏi liệu làm thế có tốt không, chúng có 
trở thành phụ thuộc vào tôi không. Nếu đứa trẻ cảm thấy đủ lòng tự tin và tự 
trọng, thì cả hai phía (cha mẹ và con cái) có thể bắt đầu buông xả. Trong mười 
tháng đầu tiên, các con ngủ chung với tôi. Tôi có mặt khi chúng cần, nhu cầu của 
chúng luôn được thỏa đáp, nhưng các con tôi cũng hiểu khi tôi phải đi xa. Chúng 
không khóc khi đưa tiễn tôi ra sân bay.
Dĩ nhiên mỗi cha mẹ có một cách 
dạy dỗ khác nhau. Có người có phương tiện để ở nhà chăm sóc con, nhưng cũng có 
người không làm được như thế.  Tôi nhận thấy rằng bổn phận làm cha mẹ là tạo cho 
con có lòng tự trọng và tập cho chúng tự lập để không phải suốt đời lo lắng cho 
con.  Có một câu nói rất hay, “Con cái không thể rời xa gia đình, trừ khi chúng 
đã được lớn lên từ trong gia đình”.
Từ khi trở thành mẹ, tôi đã nhìn lại 
gần như tất cả quá trình tu tập của mình. Sự khác biệt bây giờ là tôi nhấn mạnh 
vào sự tỉnh thức một cách thư giãn – thư giãn nhưng ý thức rất rõ ràng. Quá 
trình tu tập của tôi là tỉnh thức và chánh niệm, dựa trên an chỉ định. Định có 
thể làm cho tôi thấy rất tuyệt vời, nhưng nó cũng vô thường. Người bám víu vào 
cảm giác diệu kỳ này sẽ thất vọng khi họ không thể mang nó vào trong đời sống 
hằng ngày. Hiện tại tôi khuyên các thiền sinh của mình thư giãn trong từng phút 
giây, hơn là cố gắng quá sức, điều đó khiến cho việc tu tập trở nên dễ dàng hơn. 
Sau mỗi khóa tu tập, họ không còn phản ứng như thể mới vừa được giải thoát khỏi 
tù ngục. 
Phật pháp cần phải uyển chuyển và không loại trừ một ai. Nếu 
Phật pháp chỉ dành cho người tu, cho những người độc thân, hay có gia đình nhưng 
không vướng bận, có khả năng gửi con ở nhà trẻ hay con cái đã lớn, thì thật nguy 
hại. Tôn giáo đó chỉ có hình thức. Dầu đã có bao người nữ giác ngộ trước chúng 
ta, dầu đã có bao vị được nhắc đến trong các kinh điển, bao nhiêu vị đã được 
kính trọng, nhưng trừ khi giáo lý đó có thể áp dụng vào trong xã hội, nếu không 
nó cũng trở thành vô ích.