Đó là: Thiên vương Dhataraṭṭha (Trì Quốc thiên vương) ở hướng Đông, cai quản Càn-thát-bà. Thiên vương Viruḷhaka (Tăng Trưởng thiên vương), ở hướng Nam, cai quản nhóm Cưu-bàn-trà. Thiên vương Virūpakkha (Quảng Mục thiên vương), ở hướng Tây, cai quản loài Rồng. Thiên vương Kuvera hay Vessavaṇa (Đa Văn thiên vương), ở hướng Bắc, cai quản nhóm Dạ-xoa. Bốn vị thiên vương này có trách nhiệm hộ trì cho nhân loại nên còn được gọi là Bốn vị hộ thế đại vương. Vị trí của cõi Tứ đại thiên vương nằm ở khoảng giữa núi Tu-di (tức ngang đỉnh Yugandhara và trở xuống tới cõi Người).
Trì Quốc thiên vương
Thiên vương Dhataraṭṭha (Trì Quốc thiên vương)
Thiên vương Dhataraṭṭha (Đa-la-sất) ngụ ở hướng Đông của núi Tu-di, có trách nhiệm hộ trì chúng sinh nên được gọi là Trì Quốc thiên vương hay Đông thiên vương. Tùy ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ hay Trung Hoa mà hình tượng của thiên vương Dhataraṭṭha có khác biệt, đặc trưng của vị thiên vương này là cầm cây đàn tỳ-bà như một pháp khí. Vì ở hướng Đông núi Tu-di nên vị thiên vương này có da màu trắng.
Thiên vương Dhataraṭṭha cai quản hội chúng Càn-thát-bà (Gandhabba). Đây là hạng chúng sinh sống dựa vào những cây cối có mùi hương, đời sống gắn liền với cội cây mà họ đã cư ngụ lúc đầu, cho dầu cội cây ấy có bị đốn đem về để cất nhà hay làm vật dụng thì họ cũng đi theo khúc gỗ ấy, chớ không chịu bỏ đi. Khúc gỗ ấy được làm thành cái gì thì vị Càn-thát-bà trú ngụ trong cái ấy rồi hiện hình ra cho người chủ vật đó thấy hoặc xui khiến cho họ bị tai ương, hoạn nạn như đau bệnh chẳng hạn, thậm chí có thể làm cho người chủ ngôi nhà (nếu cây được làm nhà) hay chủ của món đồ bằng gỗ đó bị phá sản, sạt nghiệp. Có tất cả mười loài Càn-thát-bà hay Hương mộc thần, các vị này còn được gọi là Kaṭṭhayakkha (Mộc Dạ-xoa).
Loài Càn-thát-bà khác với Thọ cư thiên hoặc Thọ thần (Rukkhaṭṭhadevatā - loài thiên nhân sống trên cây) ở chỗ là tuy cả hai đều sống trên cây nhưng khi cây bị đốn thì các Thọ cư thiên bỏ đi qua cây khác, còn Càn-thát-bà thì cứ đi theo khúc gỗ ấy.
Được biết, duyên nghiệp tiền kiếp của một số nữ Càn-thát-bà kiếp trước là phụ nữ thất đức, nên nay phải sống dựa vào thân thể người khác mà thường thì họ thích dựa phụ nữ hơn, tức là họ tái sinh gá vào thân thể phụ nữ nào đó rồi sống luôn ở đấy, dân gian hay gọi là bị ‘dựa’ hay bị ‘nhập’. Có hai trường hợp: Thứ nhất là bị các Càn-thát-bà ấy nương gá từ lúc còn trong bụng mẹ. Thứ hai là khi đã trưởng thành mới bị họ dựa. Người bị dựa có thể sai khiến Càn-thát-bà ấy khuấy phá, phiền nhiễu người nào mình cảm thấy ghét, nhưng phải có cơ hội thích hợp chớ không phải muốn hại ai lúc nào cũng được. Người nữ bị Càn-thát-bà nhập vào lúc bình thường thì khác, nhưng nếu nhập vào lúc ngày trăng rằm, do mãnh lực Càn-thát-bà khiến nữ nhân ấy nửa đêm đi tìm vật thực, trong lúc đi tìm vật thực cũng có ánh sáng phát ra từ thân. Vì thế, hạng này có tên là Junhā. Và dầu là hạng Càn-thát-bà nào đi nữa, tất cả đều nằm dưới quyền cai trị của thiên vương Dhataraṭṭha.
Thiên vương Viruḷhaka (Tăng Trưởng thiên vương)
Thiên vương Viruḷhaka (Tỳ-lưu-ly) ngụ ở hướng Nam của núi Tu-di, giúp chúng sinh tăng trưởng thiện căn, bảo vệ Phật pháp nên còn được gọi là Nam thiên vương hay Tăng Trưởng thiên vương. Do ở hướng Nam nên da màu của vị thiên vương này sẽ có màu xanh nước biển, và pháp khí tượng trưng là thanh gươm báu.
Thiên vương Viruḷhaka cai quản hội chúng Cưu-bàn-trà (Kumbhaṇḍa). Đây là loại ác thần, có bụng to, mắt lồi và tròng mắt màu đỏ. Nơi cư ngụ của loài Cưu-bàn-trà này là cõi người và địa ngục. Nếu ở cõi người, nhiệm vụ của chúng là bảo vệ giữ gìn các núi non, rừng rậm, ao hồ, sông ngòi, bảo châu, đền tháp cùng các loại cây gỗ thơm hoặc có hoa thơm. Nói chung là chúng có nhiệm vụ trông coi những gì mà thiên vương muốn bảo tồn, chẳng hạn như ngọn núi Vepulla ở thành Rājagaha vì dưới đáy núi có một viên ngọc Maṇi cực quý. Những ai đi vào các khu vực có Cưu-bàn-trà canh giữ thì chúng có quyền bắt để ăn thịt mà không sợ các thiên vương quở phạt.
Hạng Cưu-bàn-trà dưới địa ngục thì đó là các quỷ sứ hay những La-sát mang hình dạng kên kên, chim quạ, chó dữ có nhiệm vụ trừng trị tội nhân và bắt họ để ăn thịt. Vậy quỷ sứ và các thú dữ ở địa ngục đều là một trong các hạng ác thần Cưu-bàn-trà hóa hiện ra. Tất cả Cưu-bàn-trà đều nằm dưới quyền thiên vương Viruḷhaka.
Thiên vương Virūpakkha (Quảng Mục thiên vương)
Thiên vương Virūpakkha (Tỳ-lưu-bác-xoa) ngụ ở hướng Tây của núi Tu-di, theo dõi thế giới, bảo hộ nhân dân, nên còn được gọi là Tây thiên vương hay Quảng Mục thiên vương. Do ở hướng Tây nên thiên vương Virūpakkha có da màu đỏ, pháp khí tượng trưng của vị này chính là con rắn quấn trên người và viên ngọc Māṇī.
Thiên vương Virūpakkha cai quản loài Rồng (Nāga). Trú xứ của loài Rồng có thể là trong lòng đất hay dưới đáy núi. Vì sống dưới lòng đất sâu nên đôi khi đùa giỡn với nhau, chúng có thể làm cho mặt đất rung chuyển. Loài Rồng cũng rất thích dạo chơi trên mặt đất, và trong những lần như thế chúng thường hóa ra hình dáng sư tử, cọp, chó, nhưng có lúc vẫn giữ nguyên hình tướng của loài Rồng. Cũng như các loài Dạ-xoa và La-sát, loài Rồng đôi khi cũng thích thú trong việc hành hạ chúng sinh và để thỏa mãn dã tính của mình, chúng cũng đi xuống địa ngục hóa thành quỷ sứ hay chó dữ, kên kên để hành hạ và ăn thịt tội nhân. Tất cả loài Rồng đều nằm dưới quyền thiên vương Virūpakkha.
Thiên vương Kuvera hay Vessavaṇa (Đa Văn thiên vương)
Thiên vương Kuvera hay Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn), ngụ ở hướng Bắc của núi Tu-di, theo dõi thế giới, bảo hộ nhân dân, nên còn được gọi là Bắc thiên vương.
Thiên vương Kuvera cai quản chúng Dạ-xoa (Yakkha). Có hai loại Dạ-xoa là Chư thiên Dạ-xoa và Bàng sinh Dạ-xoa. Chư thiên Dạ-xoa có thân hình xinh đẹp và có hào quang, là loại chúng sinh không phải người. Bàng sinh Dạ-xoa có thân hình thô xấu, khả ố. Chư thiên Dạ-xoa đôi lúc cũng có tâm bức hại chúng sinh, khi có tâm vui thích não hại chúng sinh liền hóa thành quỷ sứ đi xuống hành tội chúng sinh địa ngục theo sở thích của mình. Khi khởi tâm muốn ăn thịt chúng sinh địa ngục, liền hóa thành kên kên, quạ, chó đến bắt chúng sinh địa ngục ăn thịt. Chúng Dạ-xoa ở dưới quyền cai quản của thiên vương Kuvera.
Tứ thiên vương hộ trì thế gian
Chư thiên trong cõi Tứ thiên vương có nhiều loại. Có nhóm có thân hình xinh đẹp, có nhóm thì thô xấu; có nhóm tin Phật, có nhóm thì không; có nhóm thích bức hại chúng sinh, có nhóm lại hộ trì người, hộ trì Phật pháp, hộ trì thế gian, gìn giữ các chỗ có báu vật. Bốn chúng do Tứ đại thiên vương cai quản là những loài vừa thích làm khổ những chúng sinh khác vừa thích thú trong cả việc xung sát, đấu đá với đồng loại. Cho nên Bốn vị thiên vương phải đóng vai trò lãnh đạo, cai quản họ, không cho họ sống phóng túng và gây hại. Vì lẽ đó, nên khi ở cõi người có xảy ra một đại nạn hoặc một tai biến nào đó mà chúng ta biết tưởng niệm vọng bái đến Bốn vị thiên vương thì cũng có thể tìm được sự bình an.
Chú giải Ngạ quỷ sự (Petavatthu-aṭṭhakathā) có ghi lại câu chuyện. Gia chủ Anāthapiṇḍika có đứa cháu gái, được người vú nuôi cho một cái bánh đồ chơi. Cô bé xem món đồ chơi ấy như ‘con gái’ của mình. Rồi một hôm, trong khi đang chơi với nó, cô bé bất cẩn để đồ chơi rơi xuống và bị vỡ. Thấy vậy, cô bé bật khóc mà không có người hầu nào có thể dỗ nín được.
Bấy giờ, Bậc Ðạo sư đang ngồi trong nhà của Anāthapiṇḍika. Bà vú nuôi mang cô cháu gái đến trước gia chủ và tường thuật lại câu chuyện xảy ra khiến đứa cháu gái khóc lóc. Khi ấy, gia chủ Anāthapiṇḍika xin được cúng dường vật thực nhân danh ‘con gái’ của đứa cháu và thỉnh Thế Tôn cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu đến thọ thực vào ngày mai. Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi ngày hôm sau, Đức Thế Tôn cùng năm trăm vị Tỳ-khưu đi đến. Sau khi thọ thực xong, Thế Tôn nói lên những lời kệ tán dương như sau:
“Sau khi liên tưởng đến đối tượng nào đó, người không bỏn sẻn nên dâng cúng vật thí hồi hướng đến các người đã quá vãng trước đây, hoặc đến các Thiên nhân ở khu đất, …và đến Bốn vị đại vương có danh tiếng là những bậc hộ trì thế giới: Kuvera, Dhataraṭṭha, Virūpakkha, và Virūḷhaka. Và khi các vị ấy được cúng dường thì các thí chủ có phước quả.
Sự khóc lóc, và sầu muộn, hay sự than vãn khác là không nên, bởi vì điều ấy không đem lại lợi ích cho người đã quá vãng, (cho dầu) các thân quyến duy trì (hành động) như vậy.
Và thêm nữa, việc cúng dường này được dâng cúng, được khéo thiết lập ở hội chúng, thì lập tức thành tựu lợi ích dài lâu cho người đã quá vãng ấy”.
Như vậy, Bốn vị thiên vương luôn hộ trì cho chúng sinh được an lạc, tránh mọi tai ương, cho nên khi chúng ta làm phước gì cũng nên nghĩ tưởng đến các vị ấy. Chính do sự nghĩ tưởng đến các vị, nếu khi có vấn đề hữu sự thì các vị sẽ thương tưởng lại chúng ta vậy.
Lại nữa, cứ vào mồng tám (âm lịch) của nửa tháng, các sứ giả của Bốn thiên vương xuống thế gian để xem xét sự hành thiện của loài người; ngày mười bốn của nửa tháng thì các hoàng tử của Bốn thiên vương; ngày rằm lễ Uposatha (bố-tát) thì đích thân các thiên vương hạ thế làm công tác nói trên. Sau khi xem xét thế gian, quý vị ấy báo cáo lên chư thiên trên cõi Tāvatiṃsa (Tam thập tam thiên); chư thiên tử này hoan hỷ nếu có nhiều người dưới thế hành thiện để cõi thiên sung mãn và không hoan hỷ nếu có ít người dưới thế hành thiện vì chúng Asura sẽ sung mãn, còn thiên chúng sẽ tổn giảm.
Tóm lại, Tứ đại thiên vương luôn hộ trì thế gian, bảo hộ chúng sinh; là những người bảo vệ thế giới, chống lại cái ác, và bảo vệ Chánh pháp.
Samādhipuñño Định Phúc