Chuông trống là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở
dĩ gọi là Bát-nhã (phiên âm của chữ “prajnaa” (S) có nghĩa là “trí tuệ”) vì
công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh
của người nghe. Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại hồng chung
(chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên trái phải của chánh
điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên trái đặt chuông, bên phải đặt
trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống
là “lầu chuông trống”.
I.
Nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng Chuông
Nhiều
nguồn tài liệu khác nhau đều cho rằng quá trình đưa chuông vào tự viện và được
sử dụng rộng rãi trong các chùa chiền Trung Quốc vào thời kỳ nào không được xác
định. Tuy nhiên, như sử liệu ghi lại chuông đã được sử dụng vào thời nhà Chu
(557 trước TL- 89 TL). Phật giáo Trung Hoa đã đưa Chuông và Trống vào các tự
viện năm nào và do ai đề xướng, hiện nay chúng tôi chưa tìm ra tài liệu. Tài
liệu về lịch sử của chuông và trống Bát-nhã quả thật là quý hiếm. Tuy nhiên,
chúng tôi dựa vào một số tài liệu sau để tạm truy nguyên nguồn gốc của chúng.
Cuốn
Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ghi rằng
vào thời Lục Triều (420 - 479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hoà thứ 5
(566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại hồng chung
lớn nhất thời bấy giờ. Hai cái trong 3 cái này được đúc vào năm 570 và 665 TL.
Tục
Cao Tăng Truyện có ghi năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận
lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian
này và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự
viện.
Lại
nữa, theo truyền thuyết cho rằng hồng chung là do Hoà Thượng Chí Công khởi
xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thực hiện để cầu nguyện cho các thần
thức bị đọa trong chốn địa ngục mà người Hoa gọi là chốn U Minh.
Có
hai loại chuông thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện như sau:
Phạn
Chung (chuông Phạn): Cũng gọi là “đại chung”, “hồng chung”, “hoa chung” hoặc
“cự chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông
cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục
đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt
mình thường dùng từ “đại hồng chung” chỉ cho loại chuông thật to, gần như không
còn có quy định cụ thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông
U Minh.
Bán
chung (chuông bán): Vì chiều kích chỉ lớn bằng 1/2 chuông phạn, nên gọi là bán
chung, còn được gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung.” Chuông này thường được
đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại 1 góc trong chánh điện và
được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là “ hành lễ chung.”
Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế tạo nhiều
loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng không có kích thước cố định.
Về
thỉnh chuông, xưa ở Trung Quốc tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương mà quy định
có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và khi kết thúc đánh
nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số
lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108
tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi 108 loại phiền não nơi nội tâm.
Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.
Ngoài
ra, trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường, trai
đường gọi là “chuông tăng đường”, “chuông trai”; chuông để tại chánh điện gọi
là “chuông điện”… Những vị lo việc chuông này gọi là “chung đầu.”
Theo
niềm tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u ám,
chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền được giải
thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỷ đói
được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở các ngôi
chùa Việt Nam hiện nay cũng như các chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa
thuộc các nước theo Phật giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên. ...thường có
quả chuông lớn để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ
thỉnh chuông buổi sáng lúc 4 giờ hoặc trước thời công phu buổi sang, tuỳ theo
quy định của mỗi chùa. Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc bài kệ:
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn.
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
Nghĩa là:
Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh
thanh tịnh chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác. (Bản dịch
của Hòa Thượng Trí Quang, LUẬT SA-DI, SA-DI-NI, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản,
1989).
Dịch thơ:
1
Nguyện tiếng chuông vang rền pháp giới
Chúng sanh ngục Sắt thảy đều nghe
Tiếng đời sạch, chứng được viên thông
Tất cả muôn loài đều giác ngộ.
(Thích Nhật Từ dịch)
2
Tiếng chuông nguyện vang rền các cõi
Núi Thiết Vi tăm tối nghe hay
Âm thanh đời lắng sạch thay
Chúng sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên.
(Thích Nhật Từ dịch)
II.
Nguồn Gốc của Mõ và ý nghĩa
Theo
sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây
khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật
tử khi tán tụng đều dùng đến nó.”
Mõ
có 2 loại:
Loại
hình con cá dài thẳng treo ở nhà kho, nhà ăn…khi đến thời dùng cơm cháo thì gõ
nó để báo hiệu. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Quốc; các chùa
chiền, tự viện ở Việt Nam không dùng.
Loại
hình con cá có vảy cuộn tròn, khi tụng Kinh thì gõ. Loại này cả Trung Quốc,
Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên đều dùng. Loại mõ này được nói là xuất hiện
thuộc triều đại nhà Minh, Trung Hoa.
Theo
sách Tham Thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5
ngày mồng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sĩ.
Mỗi khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu-đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau
khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều
dùng mõ để tập họp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa-môn Chí Lâm đời
Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ
ràng. Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy (quyển hạ, phần pháp khí) có ghi lại
truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá,
trên lưng con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra
máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó
muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó nên nó mới phải bị đoạ làm
thân cá như thế này, do đó nay nó muốn báo oán. Thế rồi, vị Thầy ấy bảo cá nên
ăn năn sám-hối, Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó
được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên
để cảnh tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khắc
hình con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng.
Theo
sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ đều có khả
năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên
các loại đó đều gọi là kiền chuỳ.
Sách
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi
phổ thỉnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu mõ dài
(loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng.
Nhưng
vì sao cả 2 loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói
rằng vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ,
chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi.
Tiếng
mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh điển cho
nhịp nhàng.
III.
Nguồn gốc và ý nghĩa của Trống
Trống
là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn
Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập
họp chúng Tăng Bố-tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ-kheo bố - tát,
chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trung Quốc
thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc
để trên giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi
là trống treo…
Từ
đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại
pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến
thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những
lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo
tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với
Tam Bảo.
Ai
đã đưa trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một
giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ
thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng
rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là
trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.
Ngày
nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống nhỏ
để hỗ trợ cho quý Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ cũng
chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, vì các thời tụng niệm của Phật giáo
Trung Quốc đều có tán, và loại trống nhỏ này (người Việt mình hay gọi là Trống
Cơm) cũng được xem như một loại pháp khí.
Cách
đánh Trống Bát-nhã và ý nghĩa biểu trưng:
-
Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp
xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại).
-
3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO,
nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si.
-
7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng
trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng
toà.
-
Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA
MẬT ĐA” hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật
chứng minh.
-
Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.
IV.
Vài ý tưởng khác
1)
Vài ý niệm về việc sử dụng chuông, trống, khánh tại Ấn Ðộ và các nước khác
Theo
cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của
chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho
sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng
vòm trời.
Ấn
Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông được sử dụng
rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ
thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo có thể
được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và
các tháp tôn trí xá-lợi của đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước
lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện
cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người
cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.
Trong
các dịp tưởng niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí
khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm
Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích
Lan ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt
như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ
cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật.
Tín
đồ Phật giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà
các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc
đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm
và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.
Dĩ
nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại
chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung
Quốc trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của
chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của
thiên tử không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần lớn
cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được
sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp
đường.
2)
Sự mầu nhiệm của tiếng Khánh
Theo
như các thiền sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị thiền sư, thì tiếng
khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả đã vào các
tầng thiền như “diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị
ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức
các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định
xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức
Ngài xuất định.
Lời
cuối, cầu chúc quý cư sĩ thân tâm thường an lạc, hằng tinh tấn làm các thiện sự
và tu tập tâm của mình.
Chuông
Trống Bát Nhã Có Công Dụng Gì Trong Chùa ?
Tại
mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có
thỉnh chuông trống bát nhã.
Chuông
trống bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về điện
Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm.
Bài
kệ thỉnh chuông trống bát nhã như sau :
Thỉnh Phật thượng đường
Đại chúng đồng văn
Bát nhã âm
Nhập bát nhã ba la mật đa (đọc 3 lần)
Nghĩa là :
Thỉnh chư Phật vào chánh điện,
Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý
Âm
vang của chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của
chư Phật thành một thể tánh duy nhất.
Thường
thường chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi
chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên. Ngoài việc đón
rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc đánh chuông trống bát nhã còn
tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi
người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.
Thật
vậy, khi nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều
đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như
lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống bát nhã không do ai bày ra,
nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một
mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.
Muốn
cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu
được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.
Tài
Liệu Liên Hệ:
Pháp
Khí và Pháp Phục, TT. Thích Tín Nghĩa