I. Ðịnh Nghĩa
Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời).
Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:
1. Không được sát sanh
2. Không được trộm cướp
3. Không được dâm dục
4. Không được nói dối
5. Không được uống rượu
6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ
8. Không được ăn quá giờ ngọ
II. Giải Rõ Tám Ðiều Ngăn Cấm Nói Trên
1. Không được sát sanh.
a) Ý nghĩa vì sao không được sát sanh:
Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để chốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta cũng không nên động lòng trướcv sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ý ấy.
Ðược như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.
2. Không được trộm cướp.
Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm tr giờ, boc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp.
Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Ðó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diẹt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?
Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu.
Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta.
3. Không được dâm dục.
Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được".
Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.
Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoàn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh l, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng.
Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, nà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.
Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt dục.
4. Không được nói dối.
Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ Giới. Ðó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.
Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấâm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy !
Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.
5. Không được uống rượu.
Rượu làm say mê, tối tăm trí
não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống
vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho
người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân
hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám.
Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu".
Chúng
ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng
suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu
đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu
tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn.
Song,
trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới
lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một
vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.
Ðấy
là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng
ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn
người khác đứng uống nữa.
6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát.
Năm
giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường
cho chúng ta đến cảnh giới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta
biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải,
thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo
vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu
chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng
chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục
vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục
lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta.
Phật
cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hat lả
lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho
chúng ta khỏi đọa vào địa ngục.
Nhưng trong đời sống hằng ngày của
người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn
mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc,
hay múa hát, min là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh
cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ
nghệ thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần nhiều có
tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá d dãi mà
sa vào vòng tội lỗi.
Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày
thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức
ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố
gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không
lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.
Ðưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng ta.
7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn.
Ðiều
răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân
xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của
giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích
thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta
gây tội lỗi, nên Phật ché ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Ðạt Quốc sư là
một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn
cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo
tọa ấy, Ngộ Ðạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải
chịu nhiều tai vạ và đau khổ.
Vì hiểu rõ cái tai hại của giường
cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất
gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện: ba
năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm
đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác...
Noi gương
người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa
ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên
tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày
thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành
giới thứ bảy này.
8. Không được ăn quá giờ ngọ.
Trong
luật Phật dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau
giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".
Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:
Ít mống tâm sai quấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhất tâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.
Trừ
một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm
cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
Vì những
lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn
Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới
này.