Nghi Lễ Phật Giáo Đối Với Người
Hấp Hối
Tẩm Liệm - Chôn Cất - Cúng Tế
Quảng Diệu
-o0o-
Phật giáo vốn coi cuộc
đời là vô thường và vạn vật là giả huyễn (chỉ như bóng
trong gương, ảnh nơi đáy nước, không thật có). Có sinh thời
có tử, có hợp thời có tan, có thành trụ thời có hoại diệt! Đó là
nguyên lý thường hằng, không bao giờ thay đổi! Nhiều người lên án
quan niệm của Phật giáo bi quan, yếm thế vì thường giải
thích các sự kiện cuộc sống bằng thuyến nhân quả, luân hồi,
nhân duyên và các yếu tố vô thường, qua đó chư vị hướng
dẫn tâm linh Phật Giáo khuyên tín đồ của mình chịu nhẫn
nhục, an phận. Họ còn cho rằng giáo lý Phật giáo chỉ có mục
đích ru ngủ con người! Nếu quan niệm như vậy thì hoàn toàn
sai lầm, không hiểu giáo lý Phật Thừa! Phật giáo rất tích
cực tiến thủ trong cuộc sống, người Phật tử thuần thành sống từng
giây từng phút trong tỉnh thức, không sao nhãng, không bỏ phí
thời gian để hướng thượng, xây dựng, phục vụ chúng sinh và
hoàn thiện hóa bản thân. Danh từ chỉ hành động hướng thượng
này chính là Tinh Tấn và hành Bồ Tát Đạo! Mỗi chúng sinh
luôn luôn phải tinh tấn tu học, để thoát ra khỏi bể khổ
nguồn mê, thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, để cầu Phật quả!
Chính vì
lẽ ấy, người Phật tử tin tưởng vào dòng sinh mệnh dài vô
tận, thời gian sinh sống tại thế gian chỉ là những chặng đường để họ
học hỏi, tu tập, hoàn thiện hóa cho đến khi giác ngộ hoàn
toàn! Nếu sự sinh ra đánh dấu khởi điểm một cuộc hành
trình, thì cái chết chỉ cho sự hoàn mãn cuộc hành trình
kia, để rồi sau đó lại bắt đầu cuộc hành trình mới, cuối
cùng đắc Nhất Thiết Trí (thành Phật), hóa độ chúng sinh và
nhập diệt vào niết bàn tịch tịnh!
Hoà
Thượng Quảng Độ đã có bài thơ Giấc Mơ Sinh Tử như sau:
Cuộc đời như một giấc mơ
Tỉnh ra
mái tóc bạc phơ trên đầu
Tít mù xanh thẳm hàng dâu
Gió tung cát
bụi biết đâu lối về
Sống là thật hay là ảo mộng?
Chết đau buồn
hay chính thật yên vui?
Cứ hằng đêm tôi nghĩ mãi không thôi
Chẳng biết nữa mình sống hay là chết?
Hoàng lương nhất mộng phù du
kiếp
Sinh tử bi hoan thuộc giác chi
Sống chết là cái chi chi?
Lý huyền nhiệm, ngàn xưa mấy ai từng biết
Có lẽ sống cũng là đang
chết
Sống trong tôi và chết cũng trong tôi
Chết đeo mang từ lúc
thai phôi
Đâu có phải đến nấm mồ mới chết
Vì lẽ ấy tôi không sợ
chết
Vẫn ung dung sống chết từng giây
Nhìn cuộc đời sương tuyết
khói mây
Lòng thanh thản như chim hoang, người gỗ
Giữa biển trầm
luân, gió dồi sóng vỗ
Thân tùng kia xanh ngắt từng cao
Sống với
chết nào khác chiêm bao
Lý nhất dị hào quang bất diệt
Cũng có
lẽ, chết hẳn rồi mới biết
Sống đau buồn mà chết thật an vui
Xin
đừng sợ chết ai ơi.
Khi đứa bé sinh ra,
thường có bao nhiêu người vây quanh để giúp đỡ! Các bác sĩ,
y tá, bà mụ đỡ, người cha và đương nhiên có bà mẹ... họ
làm tất cả để bé chào đời được an lành, để bé được bảo đảm vệ sinh
và mai sau có sức khỏe tốt!
Nhưng ít
ai biết đến, khi người sắp lìa đời cũng cần sự giúp đỡ rất
nhiều, lại nhiều hơn gấp bi so với sự giúp đỡ hài nhi chào đời!
Ngoài những giúp đỡ thể xác như thuốc thang, chăm sóc, người hấp
hối còn cần sự giúp đỡ tâm linh vô cùng bức thiết. Thông
thường thì sự việc sinh ly, tử biệt, khiến cho thân nhân
của người sắp mất đau đớn, mất bình tĩnh, khóc lóc, vật vã,
kêu réo... vv... Họ biết đâu chính những hành động không
sáng suốt này chỉ có hại, chứ không có lợi ích gì cho tư
lương lên đường của người sắp lìa thế gian kia!
Chúng tôi
xin trình bày các điểm chính yếu sau đây, để Phật tử chúng
ta có phản ứng đúng đắn khi gặp trường hợp phải độ người hấp hối:
Câu hỏi
1: Người ta phải làm gì để giúp đỡ cho người sắp ra đi?
1. Thân
quyến phải tuyệt đối bình tĩnh, không được kêu khóc ầm ĩ đển
làm phiền đến người hấp hối. Thân quyến phải hiểu rằng: Cái chết
không chừa bất cứ ai cả, nó rất bình thường, cái chết là một
phần của sự sống vậy! Khóc lóc cũng không thể lôi kéo được
người hấp hối sống lâu thêm được. Bối rối ầm ĩ chỉ tạo cho
thần thức của người hấp hối rối loạn, bi lụy, và qua đó, có
thể ảnh hưởng đến hậu kiếp của họ, họ có thể sanh vào ba
đường ác (Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Địa Ngục).
2. Người
thân phải lập tức mời các vị Sư hướng dẫn tâm linh tới, để
quý Thầy, Cô có thể hướng dẫn, hộ niệm hoặc trấn an người đang hấp
hối! Nếu nơi nào xa chùa quá, thì mời ban hộ niệm của cộng đồng
hoặc các vị thiện tri thức có kinh nghiệm hướng dẫn đưa
người về cõi Phật! Nếu không thể mời được ai, thì chính
người thân của người hấp hối phải bình tĩnh để giúp đỡ họ
ra đi trong thanh thản. Người thân nếu có khả năng thì đọc
chú Đại Bi, chú Cát Tường, cầu an cho tâm hồn người hấp hối
được lắng đọng, hướng về điều lành. Chú Đại Bi còn có khả
năng xua đuổi ma quỷ đến lôi kéo linh hồn người sắp ra đi!
Nếu người thân không có khả năng tụng kinh cầu an, chú Đại Bi, thì
nên dùng giọng từ ái kể lại cho người hấp hối, những việc thiện
đắc ý nhất của họ! Giống như khi xưa ngài Xá Lợi Phất dùng
cách này, nhắc lại cho ông Cấp Cô Độc nghe chuyện ông ta đã
hộ pháp, và cúng dường Kỳ Viên cho Phật thuyết Pháp ra
sao! Những lời nhắc nhở này có tác dụng, giúp cho người sắp
mất an tâm, phát tâm hướng thiện, hướng thượng, quên bớt
sự đau đớn của thân xác, không khởi tâm sân giận, để phải
sinh vào ác đạo! Người thân cũng nên lắng nghe tâm nguyện
của họ, song nên hướng dẫn họ chỉ nên hướng tới tâm nguyện thiện!
Quan trọng nhất, toàn thể con cháu phải niệm không gián đoạn sáu
chữ Nam Mô A Di Đà Phật! Khi người hấp hối sắp trút hơi thở
cuối cùng, thì chuyển sang đồng đọc chín chữ Nam Mô Tiếp
Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật! Phải tụng chín chữ này mãi, tụng
hàng giờ sau khi người thân đã ra đi!
3. Phương
pháp khác có thể ứng dụng, là thỉnh những cuốn băng
casette do quý Thầy tụng Kinh A Di Đà, tụng Chú Đại Bi, bật máy với
âm thanh vừa đủ, để người sắp ra đi nghe suốt ngày đêm.
4. Nếu
người sắp mất là Phật tử thuần thành, họ có thể giữ tâm thanh
thản, không vọng loạn, và nhất tâm tụng niệm sáu chữ Nam Mô A Di Đà
Phật, hoặc Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật! Họ nhìn vào
ảnh, tượng Phật A Di Đà, quán nguyện Ngài tới tiếp dẫn về
Tây Phương Cực Lạc! Nhưng sự hộ niệm cũng rất cần thiết!
Không còn gì quý giá bằng sự ra đi êm ái của một người với
nụ cười trên môi, và trong tiếng hộ niệm vang đều của quý
Thầy, Cô và thân bằng quyến thuộc!
Câu hỏi
2: Người ta phải làm những gì sau khi người hấp hối trút hơi
thở cuối cùng?
Khi người hấp hối đã trút hơi thở cuối
cùng, người thân cần làm ngay những công việc sau:
1) Đặt
thi thể nằm ngay ngắn lại, tránh xê dịch quá nhiều, không
được thay quần áo hoặc tắm rửa, kỳ cọ nặng tay trong vòng 12 tiếng
đồng hồ.
2) Vuốt mắt để gương mặt người quá cố được
an tịnh!
3) Dùng khăn sạch ấm lau sơ gương mặt, bỏ
răng giả (nếu có) đã rửa sạch vào miệng người mất, nắn nhẹ
cho miệng khép kín! Có nhiều trường hợp người mất không
ngậm miệng, người ta phải dùng miếng vải hoặc tấm khăn buộc
chằng từ càm lên đỉnh đầu để miệng khép kín! Nếu miệng của
tử thi đến khi liệm vẫn không khép kín, theo kinh nghiệm
dân gian, người ta có thể dùng 7 miếng vàng nhỏ, 7 hạt nếp và một
miếng ngọc bích nhỏ bỏ vào miệng, nếu người quá cố là đàn ông.
Hoặc 9 miếng vàng nhỏ, 9 hạt nếp và một miếng ngọc bích nhỏ
cho đàn bà... miệng người quá cố sẽ từ từ tự ngậm lại! Có
người bỏ tượng Phật, ảnh Phật nhỏ hoặc mảnh giấy viết câu
thần chú Um Ma Ni Pat Me Hum vào miệng tử thi.
4) Đặt
hai bàn tay người vừa mất chắp trên bụng họ, hãy dùng một xâu
chuỗi niệm Phật đặt vòng giữa hai bàn tay của người ấy giống như khi
còn sống họ thường lần tràng hạt vậy.
5)Trong
phòng đặt thi thể của người quá cố phải an tịnh, không được
có tiếng khóc than, chỉ có tiếng niệm Phật của quý Tăng, Ni và thân
nhân của người quá cố, bằng tâm thiết tha quán tưởng đến Tây
Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, đến Tây Phương Tam
Thánh (Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát). Nếu không có cách nào hơn, có thể mở máy cassette
tụng kinh Phật, đặt trong Linh Đường (phòng để xác), nhưng
cách này không được tốt bằng tụng trực tiếp như trình bày ở
trên.
5. Sau khi người ta trút hơi thở cuối
cùng, thần thức, linh hồn người đó còn ở lại trong thân thể
một thời gian, có thể vài tiếng đồng hồ đến 3, 4 ngày!
Chính vì vậy, người đó dù không còn sống, không nói, không
thở nữa, nhưng vẫn nghe được, hiểu được những việc xảy ra
xung quanh! Không được làm gì nặng tay để gây đau đớn, và sân
giận cho họ, trong suốt thời gian này. Thân nhân phải cố gắng tránh
cho người vừa mất, phải chịu cận tử nghiệp (nghiệp tạo ra
trước khi thần thức rời khỏi thân xác) xấu. Tại vì cận tử
nghiệp vô cùng quan trọng cho hương linh. Nếu cận tử nghiệp
tốt (được khai thị bởi chân thiện tri thức, chợt hiểu ra
được lẽ huyền vi sống chết, tâm không tham luyến, trí không
điên đảo, buông bỏ tất cả), hương linh có thể từ phàm
chuyển nên thánh. Còn cận tử nghiệp xấu, hương linh sẽ bị sa
vào ba đường ác (Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh), hoặc nếu được sinh
vào cõi người, cũng là người ngu si, sân hận, bệnh hoạn, khốn
khó trong hậu kiếp. Theo kinh nghiệm của Cổ Đức, người
thiện tri thức có thể sờ vào 6 chỗ sau đây: 1) Đỉnh đầu, 2)
Hai mắt, 3) Ngực nơi trái tim, 4) Lỗ rốn nơi bụng, 5) Hai
đầu gối và 6) Gan bàn chân! Đến khi 6 chỗ ấy đều lạnh ngắt
như những chỗ khác, thì bấy giờ thần thức người đó mới thật
sự rút lui khỏi thể xác, các nghi lễ tẩm liệm có thể bắt
đầu. Có bài kệ rằng: Đỉnh đầu về cõi Phật; Xuất mắt được lên
Trời; Tim ấm, lại sinh Người; Bụng rốn làm Ngạ Quỷ; Đầu gối đọa Súc
Sinh; Bàn chân sa Địa Ngục! Nghĩa là thần thức rút ra nơi
đỉnh đầu, hơi ấm tụ lại sau cùng nơi đó, người ấy được sinh
về cõi Phật. Hơi ấm xuất hiện cuối cùng ở mắt thì linh hồn
này được sinh lên các cõi Trời hạnh phúc! Hơi ấm sau cùng
còn lại sau cùng ở trái tim, thì thông thường sau 49 ngày
người ấy đi đầu thai làm Người trở lại (cũng có trường hợp
đầu thai ngay lập tức, hoặc ở trong trạng thái linh hồn khá
lâu)! Hơi ấm rút lui cuối cùng ở lỗ rốn thì người ấy sinh
ra kiếp làm Ngạ Quỷ đói khát. Thần thức xuất tại đầu gối thì kẻ
đó bị đọa vào làm súc sinh! Và hơi nóng rút ra từ gan bàn chân,
linh hồn đó bị đọa vào địa ngục! Chư Tăng khuyên chúng ta
không nên sờ vào những chỗ đó của người mới mất, vì phàm
phu chúng ta không đủ năng lực đưa thần thức thoát ra ở
những nơi cao như các vị cao tăng, có thể vì sự sờ mó ấy
thần thức sẽ xuất ra từ những chỗ xấu. Cho nên việc rước
chư Tăng độ người hấp hối vô cùng quan trọng.
6. Nếu
thân nhân thấy người vừa mất được quý Thầy cho biết, hơi nóng
lưu lại cuối cùng ở đỉnh đầu, ở mắt thì hãy vui mừng, lạy tạ trời
Phật, lạy thi thể, rồi mở tiệc ăn mừng! Hai trường hợp này
không cần cầu siêu gì cả! Trường hợp thứ ba, thần thức ra
từ trái tim, phải tụng kinh Thủy Sám, tụng kinh Di Đà,
phóng sinh tạo phước cho linh hồn đó, cầu Quán Thế Âm Bồ
Tát tiếp dẫn người đó được sinh vào nơi gia đình tử tế, nơi
thị thành phồn vinh, gần Chùa Chiền, Chánh Pháp và các
quốc gia tân tiến. Trường hợp thứ tư và thứ năm phải tụng
kinh Địa Tạng, để cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu khỏi cảnh khổ Địa
Ngục! Phải mời nhiều Sư lập đàn cứu người đó thoát cảnh Ngạ Quỷ.
Thân nhân, con cháu phải tuyệt đối ăn chay, tụng kinh, cầu
nguyện liên tục đến 100 ngày! Cần nói thêm, nếu thân nhân
của hương linh làm điều thiện (ấn tống kinh điển, mở cửa bố
thí cho người nghèo, lập đàn mời sư thuyết pháp, phóng
sinh, xây chùa, lập tháp...) và hồi hướng cho hương linh,
hương linh sẽ được hưởng một phần bảy công đức ấy.
Câu hỏi
3: Người ta phải làm gì khi tẩm liệm, tống táng và cúng tế?
7. Khi
tất cả 1 trong 6 chỗ như trên ở thi thể người mất đã lạnh
ngắt, có thể dùng nước thơm, ấm, tắm rửa cho thi hài, thay quần áo
sạch sẽ cho họ, và tẩm liệm vào quan tài! Không nên dùng Nylon
để tẩm liệm, vì sợ thi hài sẽ lâu phân hóa, nếu chôn xuống
đất! Nhiều nơi, người ta liệm bằng áo tràng của Chùa, và có
các Thầy làm phép, trì chú để ngừa tránh ma quỷ lợi dụng
thân xác của người chết, làm hại cho con cháu.
8. Theo
truyền thống Phật giáo, có thể Trà Tỳ, tức hỏa táng thi thể,
và nhặt xương tro cho vào bình sứ để thờ trong Chùa, hay chôn xuống
đất, hoặc rải xuống biển, xuống sông đều được!
9. Trong
tang lễ, tang gia tuyệt đối tránh sát sinh súc vật để làm
lễ rình rang, chỉ nên cúng Hương Linh bằng các món chay! Tại vì sát
sinh súc vật, linh hồn người chết chịu hết nghiệp sát, đó là
điều tai hại, đại bất hiếu, đại bất nhân!
10. Khi
cúng cho Hương Linh, thân nhân phải đọc câu Thần Chú Án Nga
Nga Nẳng Tam Bà Phạ Phiệt Nhựt Ra Hồng trước tên tuổi, tên Hèm của
Hương Linh để cơm cúng biến thành Pháp thực thì Hương Linh mới
hưởng được!
Tóm lại: Gia đình có người sắp mất, phải
tuyệt đối bình tĩnh, không được khóc lóc kêu gào trước
giường người sắp mất, mời Sư, mời ban hộ niệm, chân tâm cầu
đức Phật A Di Đà tiếp dẫn! Hoặc để băng cassette tụng Kinh
suốt thời gian hấp hối và sau đó! Không được di chuyển,
đụng mạnh vào thi thể người mất đến 12 giờ (đến khi tất cả đều
lạnh)! Đặt tràng hạt vào đôi tay chắp nghiêm trang trên bụng, an
táng hoặc hỏa táng, đều tẩm liệm thi hài trong tư thế ấy (phải
đặt đôi tay lên bụng họ, khi họ mới lìa trần, để quá lâu,
xác cứng không dễ dàng để được nữa). Không được sát sinh để
cúng tế! Cầu siêu bằng kinh A Di Đà (trừ trường hợp thần
thức xuất ra từ gan bàn chân, thì phải tụng kinh Địa Tạng
ngay) đến 49 ngày, sau đó tụng kinh Địa Tạng cho đến 100
ngày, thời gian này, con cháu nên ăn chay!
Mặc dù
những điều trên đây còn có nhiều thiếu sót, nhưng chúng tôi
hy vọng có thể giúp cho tang gia những điều cần thiết và bổ ích, cầu
mong các Hương Linh được hóa sanh nơi Liên Trì Cực Lạc của
đấng Cha Lành A Di Đà Phật, hoặc sinh về các cõi trời hạnh
phúc, hoặc sinh vào cõi người, với đầy đủ trí tuệ, vật
chất, hạnh phúc và sức khỏe trong vị lai kiếp!
Xin quý
vị tiếp tay bổ xung và phổ biến bài viết đến nhiều gia đình
khác, đây là cách tạo công đức, phước báu vậy!
Nguyện
đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh,
đều trọn thành Phật Đạo!
Nam Mô
Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
Thụy Sĩ,
Mùa Thu PL 2547
Quảng Diệu, Trần Bảo
Toàn
Bị chú:
Đây
là việc làm nghiêm túc. Trước khi viết bài này, chúng tôi đã
nghiên cứu nhiều tác phẩm Phật Học nói về sự chết một cách kỹ càng.
Sau khi viết xong, chúng tôi đã gửi đi xin các Thiện Tri
Thức (gồm nhiều Thầy và các chân thiện tri thức tại gia) bổ
xung và cho ý kiến.
( Theo
Tangthuphathoc.com )