1- Phật
pháp là để đối diện với những vấn nạn trong đời sống
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời
sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương
sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh
những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính
chúng ta với sự thực hành Phật
Pháp là để nhận ra rằng thực
hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
Sự thực hành Phật Pháp không chỉ là để cảm thấy tốt lành,
hay để có một thói quen tốt, hay là một thời trang phong trào, hay bất cứ điều
gì giống như thế. Sự thực hành Phật Pháp là hướng tới để giúp chúng ta xa
lìa những rắc rối của chúng ta. Điều ấy có nghĩa là nhằm để thực hành
Phật Pháp một cách thực tiển, chúng ta cần nhận ra rằng nó sẽ không là một tiến
trình dễ chịu. Chúng ta phải nhìn vào đấy và thực sự đối diện với
những điều không dễ chịu trong đời sống của chúng ta, những khó khăn mà chúng
ta đang có – không phải lẫn tránh chúng, mà đúng hơn là đối diện chúng với một
thái độ mà bây giờ chúng ta sẽ cố gắng để đối phó với chúng.
Những rắc rối của chúng ta có thể có nhiều hình
thức. Tất cả chúng ta quen thuộc với hầu hết những thứ ấy – chúng
ta không an toàn; chúng ta có những khó khăn trong những mối quan hệ với người
khác; chúng ta cảm thấy xa lạ, hay bị xa lánh; chúng ta có những khó khăn với
những xúc tình và cảm giác của chúng ta – những thứ thông thường mà chúng ta
có. Chúng ta có những khó khăn trong việc đối diện với gia đình và cha mẹ
chúng ta; những người bệnh và già; Chúng ta gặp khó khăn đối phó với bệnh
tật vả già nua của chính mình. Và nếu chúng ta là những người trẻ, chúng
ta có những khó khăn trong việc dự tính những gì chúng ta sẽ làm với cuộc đời
của chúng ta, làm thế nào để chu tất cuộc sống, đường hướng nào để tiến đến, và
v.v… Chúng ta cần nhìn vào tất cả những thứ như thế.
2- Mê
muội
Một trong những điểm quan trọng nhất trong Đạo Phật là
nhận ra những vấn đề này mà tất cả chúng ta kinh nghiệm sinh khởi từ những
nguyên nhân. Không phải rằng chúng hiện diện ở đó do bởi vô nhân, hay
không có nguyên nhân gì cả. Cội nguồn của những vấn đề này là trong chính
chúng ta. Đây là một tuệ giác nội quán lớn và không dễ dàng cho hầu hết
mọi người chấp nhận. Đây là bởi vì hầu hết chúng ta có khuynh hướng đặt
sự phàn nàn những vấn đề của chúng ta trên những người khác hay những hoàn cảnh
ngoại tại. Chúng ta nghĩ rằng, “Tôi không vui do bởi những gì người kia
làm; người kia đã từ bỏ tôi; người kia không yêu tôi. Đó là lỗi của người
kia cả vậy.” Hay chúng ta đặt phàn nàn trên cha mẹ chúng ta – trên những
gì cha mẹ chúng ta đã làm hay không làm khi chúng ta là những đứa bé. Hay
chúng ta đưa đổ lỗi cho hoàn cảnh kinh tế hay tình thế chính trị, môi trường xã
hội, và v.v… Dĩ nhiên bây giờ, tất cả những nhân tố ấy biểu hiện một vai
trò trong trãi nghiệm của chúng ta đời sống. Đạo Phật không phủ nhận điều
ấy. Nhưng nguyên nhân chính, nguyên nhân sâu xa hơn của những vấn đề là
trong chính chúng ta – đấy là thái độ của chính chúng ta, đặc biệt sự mê muội hay
si ám của chúng ta.
Nếu chúng ta muốn tìm kiếm một nhân tố định nghĩa rõ ràng
thái độ của Đạo Phật quan tâm về ý nghĩa gì để thực tập Phật giáo trong đời
sống hằng ngày, tôi sẽ nói nó là điều này. Khi chúng ta đang có khó khăn,
chúng ta nhìn vào bên trong chúng ta để cố gắng tìm ra nguồn cội, và khi
đã xác định nó, chúng ta cố gắng để thay đổi hoàn cảnh từ bên trong. Khi
chúng ta nói về việc nhìn vào bên trong và tìm cội nguồn những rắc rối của
chúng ta, thì đấy không phải là căn cứ trên việc phải làm một sự phán xét rằng
tôi là một con người xấu và tôi phải thay đổi và để trở thành một con người
tốt. Phật giáo không làm những phán xét đao đức . Chúng ta cố gắng
để định rõ vị trí của nguồn cội và khổ đau, cùng cội nguồn chính của chúng là
thái độ của chính chúng ta. Một cách đặc biệt, Đức Phật nói nguyên nhân
sâu xa những vấn đề và khổ đau của chúng ta là sự mê muội hay vô minh của chúng
ta. Do thế, những gì chúng ta cần làm là khám phá xem chúng ta si mê như
thế nào về những gì đang xãy ra và chúng ta có thể điều chỉnh như thế nào
bằng việc đạt được một sự thông hiểu đúng đắn.
Chúng ta mê muội về điều gì? Đấy là về một vài
thứ. Một là nhân quả hành trạng (nhân như thế, quả như thế). Chúng
ta nghĩ rằng nếu chúng ta hành động trong một cung cách nào đấy mà nó sẽ không
có kết quả gì cả. Thí dụ, chúng ta nghĩ, “Tôi có thể trể, kệ người kia,
và v.v…, và chẳng hề gì.” Điều đó là sai; đó là mê muội. Hay chúng
ta nghĩ rằng điều gì đấy chúng ta làm hay chúng ta xử sự như thế nào sẽ
có một tác động nào đấy nhưng nó là vô nghĩa và không thể xãy ra. Thí dụ,
“Tôi sẽ tế nhị với người kia và vì thế người kia sẽ yêu tôi như đáp lại.
Nếu tôi mua một tặng phẩm dễ thương, vì thế tại sao người kia không yêu tôi bây
giờ?” Với những tư tưởng như thế, chúng ta tưởng tượng rằng những hành
động và thái độ của chúng ta sẽ không có một ảnh hưởng có thể nào hay chúng ta
thổi phồng chúng lên, nghĩ rằng chúng sẽ phát sinh nhiều tác động hơn là chúng
thật sự có thể. Cũng thế, chúng ta có thể nghĩ những thứ nào đấy sẽ mang
đến một loại ảnh hưởng; trái lại, chúng lại mang đến những điều hoàn toàn ngược
lại. Thí dụ, chúng ta muốn vui vẻ hạnh phúc và vì thế chúng ta nghĩ rằng
cách để trở nên vui vẻ là rượu chè liên tục. Nhưng điều đó chỉ sản sinh
thêm rắc rối hơn là hạnh phúc tươi vui.
Một điều khác nữa là chúng ta mê muội về việc chúng ta
hiện hữu như thế nào, người khác tồn tại ra sao, và thế giới sinh tồn thế
nào. Thí dụ, chúng ta khổ đau và trở nên bất toại ý khi già đi và phải
bệnh hoạn. Nhưng chúng ta phỏng đoán điều gì khác hơn như những con
người? Loài người gặp bệnh tật và loài người già đi, ngoại trừ những
người chết trẻ - những điều này không có gì quá ngạc nhiên. Khi chúng ta
bắt đầu thấy những sợi tóc trắng trên gương, chúng ta âu sầu và sốc về điều ấy,
đây là biểu hiện không thực tế và mê muội về việc thế giới tồn tại như thế nào,
và về chúng ta hiện hữu ra sao.
Hãy nói về việc chúng ta có một vấn nạn với sự chúng ta
già đi. Do bởi mê mờ về điều đó – sự không chấp nhận thực tế của điều ấy
– chúng ta hành động trong những phương cách tàn phá dưới sự ảnh hưởng của
những cảm xúc và thái độ phiền não. Thí dụ, sự cố gắng thúc đẩy để nhìn
trẻ trung và hấp dẫn, chúng ta hành động mong muốn khát vọng để kiếm được những
thứ mà chúng ta hy vọng sẽ làm cho chúng ta an toàn – giống như sự chú tâm và
tình yêu của những người khác, đặc biệt của những người trẻ hơn, những kẻ chúng
ta tìm thấy sự hấp dẫn. Đằng sau triệu chứng này thông thường ẩn chứa sự
mê muội rằng tôi là người quan trọng nhất trên thế giới; tôi là trung tâm của
vũ trụ. Vì thế mọi người phải chú ý đến tôi. Điều đó khiến
chúng ta phát điên lên nếu ai đấy không cảm thấy hấp dẫn đối với chúng ta hay
họ không thích chúng ta. Nó khiến chúng ta thậm chí điên tiết hơn nếu họ
phớt lờ chúng ta – nếu họ không chú ý đến chúng ta khi chúng ta muốn họ thấy
chúng ta là hấp dẫn, nếu không phải là vật chất hay thân thể, thì tối thiểu
trong một cách nào đấy. Nhưng, không phải mọi người đều thích Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn; vì thế hy vọng gì ở đấy rằng mọi người sẽ thích chúng ta!
Sự mong ước của chúng ta là được mọi người thích là một
dự đoán không thực tế. Nó không thực tiển. Nó căn cứ trên sự si ám
mê muội, lòng mong mỏi khát khao, và dính mắc rằng mọi người phải thấy chúng ta
là hấp dẫn và chú ý đến chúng ta. Bên dưới nó là thái độ phiền não của
ngu ngơ.Chúng ta nghĩ rằng chúng ta quá quan trọng và quá đáng yêu rằng mọi
người phải thích chúng ta, vì thế phải có điều gì sai lạc với người này, nếu
ông hay bà này không thích tôi. Hay tệ hơn nữa, chúng ta nghi ngờ chính
mình: “Có điều gì sai quấy đối với tôi mà đã làm cho người này không thích
tôi,” và do vậy chúng ta cảm thấy xấu xa hay tội lỗi. Điều này hoàn toàn
là ngây thơ.
Thế thì, điều chính yếu là hành động trên chính chúng
ta. Điều này là tất cả những gì của sự thực tập Phật Pháp. Không kể
hoàn cảnh là gì – nếu chúng ta có những khó khăn, cảm thấy không an toàn, hay
bất cứ điều gì, chúng ta cần nhìn lại trong chính mình để thấy điều gì đang xãy
ra. Sự mê muội ở nơi nào phía sau những cảm xúc phiền não này mà tôi cảm
nhận? Tuy thế, nếu chúng ta đang nhìn trong mối quan hệ mà chúng ta hiện
diện đã làm cho những vấn nạn bị gia tăng, chúng ta cũng cần nhận ra rằng chúng
ta không phải là người duy nhất với sự si mê. Một cách rõ ràng, người
khác cũng có sự mê mờ. Vấn đề là chúng ta đừng chỉ nói, “Bạn phải thay
đổi; mọi thứ tôi hành động là tốt và toàn hảo; bạn là người phải thay
đổi.” Trái lại, chúng ta cũng không cho rằng tôi là người duy nhất phải
thay đổi, bởi vì điều ấy có thể thoái hóa thành một kẻ tử đạo phức
hệ. Chúng ta cố gắng thảo luận một cách cởi mở mọi việc với người kia –
mặc dù, dĩ nhiên, người kia cần phải tiếp thu điều này. Chúng ta cần thấu
hiểu rằng cả hai chúng ta đều mê muội. Có một vấn đề trong cả hai chúng
ta trong những dạng thức của việc chúng ta đang thấu hiểu những gì đang xãy ra
trong mối quan hệ của chúng ta, vì thế hãy cố gắng để dẹp đi những si ám trong
cả hai chúng ta. Đây là một phương sách Phật Pháp và thực tế mà
chúng ta tiến hành.
3- Thông
hiểu Phật pháp trước khi bắt tay vào thực hành
Có nhiều loại thực hành khác nhau trong Đạo Phật.
Thật không đầy đủ nếu chỉ đơn thuần tiếp nhận những sự hướng dẫn trên việc làm
thế nào để tiến hành thực tập giống như học biểu diễn một thủ thuật nào
đấy. Điều rất quan trọng để thông hiểu, với bất cứ một loại thực tập nào,
nó sẽ hổ trợ chúng ta vượt thắng những khó khăn như thế nào. Chúng ta cần
học hỏi không chỉ khi nào và làm thế nào để áp dụng sự thực hành, mà cũng là sự
thủ trì hay nắm lấy vững vàng phía sau điều ấy. Điều này có nghĩa là chúng
ta không bắt đầu với những sự thực hành cao siêu phức tập. Chúng ta khởi
động bằng những căn bản và bồi đắp một nền tảng, vì thế chúng ta biết, từ thứ
lớp của việc giáo huấn Phật Pháp xây dựng lên như thế nào, và điều gì sẽ tiếp
diễn với bất cứ sự thực tập nào.
Bây giờ, điều thực tế là chúng ta thật sự đọc giáo huấn
mà trong ấy nói rằng, “Nếu con được cho một loại thuốc, đừng hỏi những câu hỏi
về việc thuốc sẽ hoạt động như thế nào, chỉ uống thuốc thôi!” Mặc dù đây
là một lời chỉ bảo tốt đẹp, nhưng chúng ta cần thấu hiểu rằng nó cảnh báo
bên cạnh một cực đoan. Cực đoan ấy là chỉ cố gắng để học hỏi và cố gắng
để thấu hiểu giáo huấn, nhưng chẳng bao giờ đặt bất cứ điều học tập nào, những
vấn đề học được vào trong thực hành. Chúng ta muốn tránh cực đoan đó.
Tuy thế, cũng có một cực đoan khác, mà đấy cũng cần tránh như điều
trước. Đó là khi chúng ta nghe một số hướng dẫn Phật Pháp nào đấy liên hệ
đến sự thực tập, rồi thì, với sự tin tưởng mù quáng, chúng ta chỉ tiến hành mà
không có bất cứ một sự thấu hiểu nào về việc chúng ta đang làm hay tại
sao. Vấn đề chính ấy đến từ một cực đoan là chúng ta không bao giờ thực
sự thấu hiểu áp dụng sự thực tập như thế nào trong đời sống hằng ngày.
Nếu chúng ta hiểu vấn để phía sau bất cứ sự thực tập nào – nếu chúng ta hiểu nó
hoạt động như thế nào và những khuynh hướng của nó là gì – thế thì chúng ta
không cần bất cứ ai chỉ bảo cho chúng ta áp dụng như thế nào trong đời sống
hằng ngày. Chính chúng ta thấu hiểu và tự chúng ta biết áp dụng Phật Pháp
như thế nào.
Khi chúng ta nói về tẩy trừ những vấn nạn của chúng ta,
chúng ta đang nói không chỉ về tẩy trừ cho những vấn nạn rắc rối của cá nhân
chúng ta, mà chúng ta cũng nói về việc loại trừ những khó khăn chúng ta có
trong việc hổ trợ người khác. “Tôi có những vấn đề trong việc giúp đở
người khác bởi vì lười biếng hay ích kỷ, hay bởi vì quá bận rộn.” Hay,
“Tôi đúng là không hiểu vấn đề của anh/chị/bạn là gì và tôi không có ý kiến
phải làm gì để hổ trợ anh/chị/bạn.” Đó là khó khăn lớn lao mà chúng ta
gặp, có phải không? Tất cả những khó khăn này trong việc giúp đở người
khác cũng là bởi vì sự mê muội của chúng ta. Thí dụ, si mê rằng tôi phải
giống như Thượng Đế Toàn Năng và tất cả mọi thứ tôi phải làm là một việc và
điều đó sẽ giải quyết tất cả những vấn nạn rắc rối của anh/chị/bạn; và nếu nó
không thể giải quyết tất cả vấn nạn của bạn, thế thì phải có điều gì sai sót
với anh/chị/bạn. Anh/chị/bạn đã không làm việc đúng đắn, vì thế
anh/chị/bạn là tội lỗi. Hay tôi tội lỗi, bởi vì tôi đáng lẽ có thể giúp
giải quyết vấn đề của anh/chị/bạn và tôi đã không làm được như vậy, vì thế tôi
không xứng đáng. Một lần nữa, đó là mê muội, là ngây thơ, là mù mịt về
nhân quả (nguyên nhân và kết quả).
4- Tin
tưởng vững vàng trong Phật pháp
Một điểm khác nữa là có thể áp dụng Phật Pháp một cách
hiệu quả trong đời sống hằng ngày trong một cung cách của một tinh thần định
tĩnh, chúng ta cũng cần có một sự vững vàng rằng Phật Pháp thật sự có thể xua
tan những rắc rối. Chúng ta phải nhận thức rằng Phật Pháp có thể xua tan
mê muội của chúng ta bằng việc tuân theo sự tiếp cận căn bản của Phật Pháp: để
tránh khỏi điều gì đấy, chúng ta cần tẩy trừ nguyên nhân làm cho nó xãy
ra. Nhưng dĩ nhiên, rất khó khăn để đạt đến một niềm tin sâu xa, vững
vàng rằng có thể tẩy trừ tất cả sự mê muội của chúng ta vì thế chúng không bao
giờ quay trở lại, và cũng như một niềm tin vững vàng rằng có thể đạt đến giải
thoát và giác ngộ. Đây là điều đặc biệt khó khăn khi chúng ta thậm chí
không biết giải thoát và giác ngộ thật sự là thế nào. Do vậy làm thế nào
chúng ta lưu tâm thật sự có thể đạt đến giải thoát, giác ngộ hay
không? Nếu chúng ta không nghĩ là chúng ta có thể, có phải là nó hơi lừa
dối nhằm hướng để đạt đến điều gì đấy mà chúng ta không nghĩ là nó thật sự hiện
hữu hay không? Thế thì nó trở lên là một loại trò chơi nào đấy rồ dại mà
chúng ta đang đùa nghịch; sự thực hành Phật Pháp của chúng ta là không chân
chính, không thật sự.
Chúng ta phải thật sự tin chắc, và điều này đòi hỏi nhiều
sự học hỏi nghiên tâm cũng như thông hiểu, cũng như quán chiếu và thiền tập sâu
sắc. Chúng ta phải tin chắc rằng không chỉ giải thoát và giác ngộ hiện
hữu; mà cũng là có thể cho chúng ta đạt đến được. Không phải điều ấy chỉ
có thể cho Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đạt đến, mà chúng ta, mà tôi không thể làm
điều ấy. Nhưng đúng hơn, tôi có thể đạt đến, và mọi người cũng có thể đạt
đến. Chúng ta phải thấu hiểu rằng nó là điều mà chúng ta phải hành động
để loại bỏ sự mê muội của chúng ta. Điều gì sẽ sẳn sàng giải thoát chúng
ta khỏi si mê? Điều sẽ sẳn sàng giải thoát chúng ta khỏi mê muội là sự thấu
hiểu đúng đắn hay chính kiến; và do thế chúng ta phải hiểu chính kiến hay sự
thấu hiểu đúng đắn có thể chế ngự si mê hay vô minh và loại trừ nó vì thế nó
không bao giờ trở lại. Như kết quả của toàn bộ điều này, chúng ta thấy
rằng vị trí hành hoạt thật sự của sự thực hành Phật Pháp là đời sống hằng ngày;
nó đang đối phó với những vấn nạn của chúng ta, sự mê muội của chúng ta, và
những khó khăn của chúng ta trong đời sống từ thời khắc này đến thời khắc khác.
5- Sự
thực hành Phật pháp đòi hỏi nội quán tự tâm
Sự thực hành Phật Pháp không đơn giản là thời gian rỗi
rãnh của cuộc sống, đi đến một hang động xinh đẹp yên tĩnh, hay ngay cả chỉ đi
vào trong phòng của chúng ta, rồi ngồi lên một chiếc gối để lẫn tránh việc đối
phó với đời sống của chúng ta. Lẫn tránh không phải là mũi nhọn của sự
thực hành Phật Pháp. Khi chúng ta đi đến một nơi yên tĩnh để thiền quán,
chúng ta làm như thế nhằm để bồi đắp kỷ năng thiện xão mà chúng ta cần để đối
diện với những vấn nạn trong đời sống của chúng ta. Sự tập trung chính là
đời sống. Sự tập trung không phải là việc giành được huy chương Thế Vận
Hội trong việc ngồi xuống thiền tập! Sự thực tập Phật Pháp tất cả là việc
áp dụng Phật Pháp trong đời sống.
Hơn thế nữa, thực hành Phật Pháp là tự xem xét nội
tâm. Với điều ấy, chúng ta cố gắng lưu tâm đến những thể trạng xúc cảm
của chúng ta, động cơ của chúng ta, quan điểm của chúng ta, những kiểu thức
hành vi của chúng ta. Chúng ta đặc biệt cần theo dõi xem xét những cảm xúc
phiền não. Định nghĩa đặc trưng của một cảm xúc hay thái độ phiền não là
khi nó sinh khởi, nó làm cho chúng ta và/hay những người khác cảm thấy không
thoãi mái. Chúng ta mất đi sự hòa bình của tâm hồn và trở nên không thể
kiểm soát. Đây là một định nghĩa hữu ích, bởi vì biết điều này giúp cho
chúng ta nhận ra [cảm xúc phiền não] khi chúng ta đang hành động dưới ảnh hưởng
của một [cảm xúc phiền não]. Chúng ta có thể biết rằng có một phiền não
nào đấy đang diễn ra trong tâm thức chúng ta nếu chúng ta cảm thấy khó
chịu. Tại những thời điểm như thế, chúng ta cần kiểm lại những gì đang
xãy ra bên trong và áp dụng những phương thức đối trị để điều chỉnh nó.
Điều này đòi hỏi phải trở nên rất nhạy cảm với những gì
đang xãy ra bên trong chúng ta. Và để làm bất cứ điều gì về việc thay đổi
thể trạng cảm xúc của chúng ta, nếu chúng ta thấy nó là phiền não, đòi hỏi sự
nhận thức rằng nếu chúng ta trong một cung cách phiền não hay bị phiền não, nó
sẽ tạo nên nhiều bực dọc cho cả chúng ta và những người khác. Chúng ta không
muốn điều đó; chúng ta đã có quá dư thừa về điều rắc rối đó. Và nếu chúng
ta khó chịu, làm thế nào chúng ta có thể hổ trợ người khác?
6- Uyển
chuyển
Thực hành Phật Pháp cũng đòi hỏi kinh nghiệm với nhiều
loại năng lực đối kháng khác nhau, không chỉ là một hoặc hai. Đời sống
chúng ta là rất phức tạp và một loại thuốc giải độc sẽ không luôn luôn có hiệu
quả. Sự thực tập đặc thù của chúng ta sẽ không tác động tối đa trong mỗi một
trường hợp. Để thật sự có thể áp dụng mọi thứ trong đời sống hằng ngày
đòi hỏi một sự ứng xử uyển chuyển và nhiều phương pháp khác nhau. Nếu điều này
không hiệu quả, thế thì chúng ta phải thực hiện điều kia; nếu điều kia không
tác dụng chúng ta phải thực hành điều này.
Tsenzhab Serkong Rinpoche, vị thầy của tôi, thường nói
rằng khi chúng ta đang cố gắng làm điều gì đấy trong đởi sống, luôn luôn có hai
hay ba chương trình khác nhau. Rồi thì, nếu dự án A không khả thi, chúng
ta sẽ không bỏ cuộc. Đấy là bởi vì chúng ta sẽ quay sang dự án B hay
C. Một trong các dự án ấy cuối cùng sẽ hợp lý và hoạt động. Điểu
này tôi thấy là một chỉ dẫn rất hữu ích và cũng giống như với Phật
Pháp: nếu phương pháp A không khả thi trong một hoàn cảnh đặt biệt nào
đó, chúng ta luôn luôn có một chương trình dự phòng. Có những thứ khác
chúng ta có thể chuyển đổi sang. Tất cả điều này rõ ràng căn cứ trên sự
học tập, trên sự nghiên cứu nhiều phương pháp và thiền quán khác nhau, những
điều mà sau này chúng ta thực tập rèn luyện, giống như chúng ta thực hiện với
sự luyện tập thân thể. Chúng ta hoạt động để tự rèn luyện chúng ta để
quen thuộc với những phương pháp này vì thế chúng ta thật sự có thể áp dụng
chúng trong đời sống hằng ngày khi chúng ta cần chúng. Điều này đòi hỏi
sự quan tâm đến việc thực tập Phật Pháp không như một sự thư giản hay giải trí,
mà như là một chí nguyện toàn thời gian.
7- Tránh
những cực đoan
Chúng ta áp dụng sự thực tập Phật Pháp trong gia đình
chúng ta. Chúng ta thực tập nó trong cung cách cư xử với cha mẹ chúng ta,
với con cái chúng ta, và trong việc xử sự với những người ở sở làm. Trong
việc làm điều này, chúng ta cần tránh những cực đoan khác nhau. Chúng tôi
đã đề cập một ít điều này rồi. Chúng ta phải tránh cực đoan đổ lỗi những
rắc rối của chúng ta lên những người khác hay nhận lãnh toàn bộ trách nhiệm về
phía chúng ta - - tất cả các bên chúng ta cùng cống hiến. Chúng ta có thể
cố gắng làm cho những người khác thay đổi, nhưng dễ nhất là thay đổi chính
chúng ta.
Tự trau dồi, thế thì, là sự tập trung; nhưng trong việc
làm này, chúng ta phải cố gắng tránh sự ám ảnh vị kỷ cực đoan. Với sự ám
ảnh vị kỷ, chúng ta luôn luôn chỉ nhìn vào chúng ta mà không để ý đến bất cứ
người nào khác. Điều này có thể thúc đẩy cảm giác rằng chúng ta là trung
tâm của vũ trụ và những vấn đề của chúng ta là quan trọng nhất trên thế giới và
không có vấn đề của ai khác là quan trọng hay bị tổn thương.
Một cực đoan khác là nghĩ rằng chúng ta là toàn xấu hay
chúng ta toàn tốt. Đúng là chúng ta cần nhận ra những khía cạnh khó khăn
của mình, những phương diện mà chúng ta cần phải làm việc với chúng. Nhưng
chúng ta cũng cần nhận thấy những khía cạnh tích cực, những phẩm chất tốt đẹp,
vì thế chúng ta có thể phát triển chúng hơn nữa. Nhiều người Tây phương
chúng ta có lòng tự trọng thấp. Nếu chúng ta tập trung quá nhiều với
những vấn đề và sự rối rắm của chúng ta, điều này có thể khơi thêm lòng tự
trọng ít ỏi ấy đó. Đó hoàn toàn không phải là vấn đề tích cực.
Cùng lúc khi tiếp tục nhìn những cảm xúc phiền não, chúng
ta cần quân bình điều này với việc nhớ về những phẩm chất tích cực của chúng
ta. Ngay cả những người thô bạo nhất cũng có một kinh nghiệm nào đó về
những phẩm chất tốt đẹp. Không nghi ngờ gì họ đã từng có những kinh
nghiệm trong việc ôm ấp một con mèo con hay một con chó con trong lòng của họ,
cho nó ăn, và cảm thấy một chút ấm áp đối với nó. Hầu hết mọi người tối
thiểu có kinh nghiệm ấy. Do thế, chúng ta nhận ra rằng chúng ta có thể
ban tặng một sự ấm áp như thế này, trong cách này, chúng ta cũng thấy những
khía cạnh tích cực của chúng ta. Thực tập Phật Pháp không chỉ là làm việc
với những khía cạnh tiêu cực, điều ấy phải được quân bình. Chúng ta cũng
cần hoạt động trong việc thúc đẩy những khía cạnh tích cực của chúng ta.
Trong việc làm này, trong việc cố gắng để duy trì một sự
cân bằng giữa việc nhìn vào những khuyết điểm và những phẩm chất tốt đẹp của
chúng ta, chúng ta cần tránh một nhóm những cực đoan khác. Một cực đoan
là tội lỗi, “Tôi tệ quá. Tôi phải thực tập và vì tôi không thực tập, tôi
thậm chí tệ hơn nữa.” Từ ngữ “nên” cần được xóa khỏi cung cách của chúng
ta nhìn vào sự thực hành Phật Pháp. Nó chẳng bao giờ có liên hệ gì với
“nên” cả. Nếu chúng ta muốn đưa chúng ta ra khỏi những rắc rối thì chúng
ta phải và tránh xa hơn nữa những thứ đó trong tương lai, thái độ lành mạnh
nhất là suy nghĩ, một cách đơn giản, “Nếu tôi muốn từ bỏ những rắc rối của tôi,
sự thực tập này sẽ giúp tôi làm điều ấy.” Bây giờ, chúng ta có thực hành
hay không, đấy là quyền chọn lựa của chúng ta. Không có ai nói rằng, “Bạn
NÊN làm điều này, nếu không làm điều này, bạn là xấu.”
Nhưng, chúng ta cũng cần tránh một cực đoan khác, đấy là
cực đoan, “Tất cả chúng ta đều toàn hảo; chỉ cần nhìn vào Phật tính của chúng
ta và thế là mọi thứ đều toàn hảo.” Đây là một cực đoan rất nguy hiểm bởi
vì nó có thể đưa đến thái độ rằng chúng ta không cần thay đổi; chúng ta không
cần tránh dừng lại hay bỏ đi bất cứ cung cách tiêu cực nào của chúng ta bởi vì
chúng ta đã toàn thiện rồi. Chúng ta cần tránh tất cả những loại cực đoan
này – cảm thấy rằng chúng ta xấu xa hay cảm thấy rằng chúng toàn hảo. Một
cách căn bản, chúng ta cần nhận trách nhiệm về chúng ta. Điều này là chìa
khóa chính để hòa nhập Phật Pháp vào trong đời sống hằng ngày của chúng
ta. Chúng ta nhận trách nhiệm cho chúng ta, để làm điều gì đấy về
sự tốt đẹp thậm chí cao cả cho đời sống của chúng ta.
8- Sự truyền
cảm hứng – Năng lực gia trì
Trong khi tự hành động với chính mình, chúng ta có thể
tiếp nhận sự truyền cảm hứng từ một vị thầy tâm linh, cũng như từ cộng đồng của
những người mà chúng ta đang cùng thực tập với chúng ta. Tuy thế đối với
hầu hết mọi người, những câu chuyện kỳ bí về những bậc thầy hàng thế kỷ về
trước, có thể bay trên không trung không phải là những nguồn cảm hứng thuyết
phục cho sự truyền cảm hứng từ những vị thấy. Đó là bởi vì những thứ như
vậy rất khó để liên hệ đến và các vị ấy đã hướng chúng ta vào trong một hành
trình toàn huyển thuật. Tốt nhất là những thí dụ sống động những vị mà
chúng ta thật sự có một tiếp xúc nào đấy, thậm chí sự tiếp xúc ấy là tối thiểu.
Chư Phật hay những bậc thầy phẩm hạnh chân thật không cố
gắng để gây ấn tượng với chúng ta, cũng không cố gắng để thúc đẩy chúng
ta. Thí dụ là giống như mặt trời. Mặt trời không cố gắng để sưởi ấm
nhân loại; chỉ là phương cách mặt trời sưởi ấm mọi người một cách tự
nhiên. Điều ấy cũng đúng đối với những vị thầy tâm linh lớn. Các
ngài thúc đẩy chúng ta một cách đột nhiên và tự nhiên từ cung cách mà trong đời
sống của các ngài, đặc tính các ngài, và phương thức các ngài đối diện với mọi
thứ. Đấy không phải là những hành vi huyển thuật. Những gì hấp dẫn
nhất là càng thực tế hơn, bình dị hơn và nhạy cảm hơn.
Tôi nhớ Dudjom Rinpoche. Ngài đã viên tịch nhiều
năm rồi. Ngài là Thượng thủ của trường phái Nyingma và là một trong những
vị thầy của tôi. Ngài bị hen suyển nặng. Tôi cũng bị suyển và vì
thế tôi biết khó thở là như thế nào. Tôi biết khó khăn như thế nào để
giảng dạy khi chúng ta không thể thở một cách bình thường, bởi vì tất cả năng
lượng chúng ta bị hướng đến việc tiếp nhận đủ không khí. Thật khó khăn để
cho năng lượng của chúng ta phát ra trong tình cảnh như thế. Tuy thế, tôi
thấy Dudjom Rinpoche với cơn hen suyển trầm kha và vẫn bước lên bục để giảng
dạy. Ngài không có một tí gì phiền toái bởi cơn suyển và đối phó với nó
trong một cung cách không thể tin được trong khi ban cho những giáo huấn diệu kỳ.
Điểu này hấp dẫn khó tin được, rất nhạy cảm, không có huyển thuật gì cả.
Đấy là đối phó với những hoàn cảnh thực tiển của đời sống và điều ấy thật sự
hấp dẫn.
Khi chúng ta tiếp tục trên con đường tâm linh và có tiến
bộ, chúng ta có thể cũng tiếp nhận niềm cảm hứng từ chính chúng ta. Điều
này cũng là một nguồn cảm hứng quan trọng. Chúng ta đạt được sự cảm hứng
từ sự tiến bộ của chính chúng ta. Nhưng, chúng ta rất yếu kém, mõng manh
trong việc làm này. Hầu hết mọi người không thể đối phó với yếu tố
này một cách thức tỉnh, bởi vì khuynh hướng thường là cảm thấy kiêu hảnh và tự
hào nếu chúng ta làm nên một sự tiến bộ nào đấy. Do thế, chúng ta phải
định rõ tính chất ý nghĩa thế nào là tiến bộ một cách cẩn thận.
9- Tiến
bộ trên con đường tu tập
Đầu tiên cả, chúng ta phải nhận thức rằng tiến bộ chẳng
bao giờ trơn tru thẳng tiến; nó lên và xuống rồi xuống và lên. Điều này
là một trong những đặc trưng của luân hồi, và nó không chỉ đang nói về những sự
tái sinh cao hơn hay thấp hơn. Đi lên và đi xuống cũng liên hệ đến đời
sống mỗi ngày. Bây giờ tôi cảm thấy vui vẻ; lúc nọ tôi cảm thấy không
vui. Tính tình của chúng ta lên và xuống. Bây giờ, tôi cảm thấy
thích thực tập, lúc khác tôi cảm thấy không thích hành trì. Trong thực
tế, nó sẽ tiếp tục như thế cho đến khi chúng ta trở thành một vị a la hán, vô
sinh quả vị, một chúng sinh giải thoát, tự do khỏi vòng luân hồi.
Cho đến điểm ấy, một sự tiến bộ không thể tin nổi, một quả vị cao thượng, một
chúng sinh siêu việt, thì luân hồi đang và sẽ tiếp tục đi lên và đi xuống.
Do thế, đừng chán nãn khi mà sau một thời gian dài thực tập, bất chợt chúng ta
lâm vào sự khó khăn trong một mối quan hệ tình cảm cá nhân. Bất ngờ,
chúng ta bối rối, xúc cảm không nói nên lời – điều này sẽ xãy ra! Điều ấy
không có nghĩa rằng chúng ta đã là một hành giả tệ hại. Điều này là tự
nhiên, cho chúng ta thấy hiện thực của điều kiện luân hồi mà chúng ta đang hiện
hữu.
Những phép lạ không thường xãy ra trong sự thực tập
Phật Pháp. Nếu chúng ta muốn áp dụng Phật Pháp trong đời sống hằng ngày,
đừng mong đợi phép mầu, đặc biệt không [trông ngóng] trong tiến trình của chúng
ta. Chúng ta lượng định tiến bộ như thế nào một cách thực tế? Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, đừng chỉ nhìn vào trong định hạn của sự thực tập Phật
Pháp một năm hay hai năm. Hãy nhìn vào trong thời kỳ của sự thực tập
trong năm hay mười năm để kiểm nghiệm, “Tôi có là một người tĩnh lặng hơn năm,
mười năm trước hay không? Tôi có thể đối diện, đối phó với những tình trạng khó
khăn hơn và không bị quá bối rối hay bị quay cuồng bởi chúng hay không?”
Nếu chúng ta được như thế, chúng ta đã làm nên một sự tiến bộ nào đấy và đấy là
truyền cảm hứng. Chúng ta vẫn còn những rắc rối, nhưng điều này sẽ cho
chúng ta sức mạnh để tiếp tục. Chúng ta không quá bối rối trong những
hoàn cảnh khó khăn khi mọi thứ xãy ra một cách tệ hại. Chúng ta có thể
hồi phục nhanh chóng hơn.
Khi chúng ta nói về chính chúng ta như một nguồn
cảm hứng hay gia bị, điểm chính là niềm cảm hứng này cho chúng ta sức
mạnh để tiếp tục trên con đường. Điều này là bởi vì chúng ta tin chắc
rằng chúng ta đang đi trên con đường đúng. Và chúng ta chỉ đoan chắc rằng
chúng ta đang đi trên một hướng đúng đắn nếu chúng ta có một ý tưởng thực tiển
về ý nghĩa của những gì chúng ta đang dấn thân trong phương hướng ấy – được gọi
rằng, trong khi đi trên phương hướng phổ thông, chúng ta sẽ tiếp tục đi lên và
đi xuống.
Đây là một số ý kiến tổng quát về việc chúng ta hòa nhập
sự thực tập Phật Pháp vào trong đời sống hằng ngày như thế nào. Chúng tôi
hy vọng rằng những điều này là hữu ích thiết thực. Chân thành cảm ơn.
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 28/07/2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/introduction/integrating_dharma_into_lives.html
---------------------------------------------
Tiểu sử ngắn của
Alexander Berzin
Alexander Berzin, sinh năm 1944 tại Paterson,
New Jersey, tốt nghiệp cử nhân năm 1965 của Khoa Đông phương học, Đại học Rutgers
liên kết với Đại học Princeton, bằng thạc sĩ (MA) năm 1967 và bằng tiến sĩ
(PHd.)năm 1972 của Cục Viễn Đông Ngôn ngữ (Trung Quốc) và tiếng Phạn và Ấn Độ
học, Đại học Harvard. Từ năm 1969 đến năm 1998, ông sống ở Dharamsala, Ấn Độ,
ban đầu là một học giả Fulbright, học tập và thực hành với các bậc thầy từ tất
cả bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng. vị giáo thọ chính của ông là Tsenzhab
Serkong Rinpoche, trợ lý của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông là thông dịch viên và
thỉnh thoảng làm thông dịch viên tiếng Pháp cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.