Danh
từ “phật-đà” (buddha) đã được biết và sử dụng trước khi Đức Phật lịch sử xuất
hiện tại Ấn Độ. Danh từ này có nghĩa là “giác ngộ”, và các đạo sĩ thời đó
thường bàn luận về câu hỏi “Thế nào là một vị Phật? Ai là người giác ngộ?”
Một
lần nọ, có một vị đạo sĩ già, tên Brahmayu, nghe tin có ngài ẩn sĩ Cồ-đàm,
người ta tin rằng là một vị Phật, vừa du hành đến thị trấn của ông ta, nên ông
quyết định đến thăm Ngài (Trung bộ, kinh 91). Khi đạo sĩ Brahmayu đến nơi Đức
Phật ngự, Ngài đang thuyết giảng cho hội chúng cư dân vùng đó.
Hội
chúng ấy thấy đạo sĩ Brahmayu từ xa đi đến, liền nhường chỗ cho ông vì ông được
nhiều người biết đến và có danh tiếng. Biết ông là một vị bà-la-môn đáng kính,
bậc thầy có nhiều đệ tử, Đức Phật mời ông đến trước hội chúng và ngồi cạnh
Ngài.
Rồi
vị bà-la-môn Brahmayu nói: “Kính thưa Ngài Cồ-đàm, tôi có vài thắc mắc muốn hỏi
Ngài.” Đức Phật mời ông nêu ra những thắc mắc trong lòng, và đạo sĩ nêu ra các
câu hỏi qua một bài kệ bốn câu, đại ý chính là: “Làm thế nào để được gọi là
Phật, một bậc Giác Ngộ?”
Đức
Phật trả lời qua bốn câu kệ như sau:
“Những
gì cần biết rõ, Ta đã biết rõ;
Những gì cần từ bỏ, Ta đã từ bỏ;
Những gì cần tu tập, Ta đã tu tập;
Do vậy, này bà-la-môn, Ta là Phật”
Câu
trả lời ngắn gọn này giúp chúng ta biết về ba đặc tính của một bậc Giác Ngộ.
Đây không chỉ là ba đặc tính của một vị Phật, mà cũng là ba mục tiêu chúng ta
phải hướng đến khi thực hành những lời Phật dạy. Nếu người nào đó hỏi: “Bạn quy
y Tam Bảo chính yếu là để làm gì? Bạn giữ giới để làm gì? Bạn hành thiền để làm
gì?” v.v., câu trả lời của chúng ta phải bao gồm ba điểm tương tự: “Để biết rõ
những gì cần biết rõ; để từ bỏ những gì cần từ bỏ; và để tu tập những gì cần tu
tập.” Đây là những mục tiêu của đạo Phật, và hoàn tất ba mục tiêu này đánh dấu
sự kiện chứng đắc đạo quả giác ngộ.
Nếu
chúng ta quen thuộc với bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, ta sẽ nhận ra
ngay lập tức ba công việc trên có liên hệ đến ba trong Bốn Sự Thật Cao Diệu (Tứ
Diệu Đế). Sự thật đầu tiên là về khổ, Khổ Đế. Chúng ta cần phải làm gì đối với
sự thật này? Khổ cần phải biết, biết rõ ràng và rốt ráo, thông hiểu tường tận.
Đối
với sự thật thứ hai, sự thật về nguyên nhân của khổ, Tập Đế, là do lòng tham
thủ, và lòng tham thủ này cần phải từ bỏ, hay đoạn tận. Sự thật thứ tư, Đạo Đế,
là về Bát Chánh Đạo, là con đường cần phải được tu tập.
Còn
một sự thật không thấy đề cập trong bốn câu kệ nêu trên, là sự thật về sự tàn
diệt của khổ, Diệt Đế. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, chúng ta biết rằng sự thật
này cần phải được “thực chứng”. Tuy nhiên, khi ba công việc kia được hoàn tất,
nghĩa là hiểu rõ, từ bỏ và tu tập, việc thực chứng sự thật về khổ diệt đương
nhiên sẽ theo sau.
*
1)
Công việc đầu tiên cần phải làm là “hiểu rõ những gì cần hiểu rõ”.
Điều
đó có nghĩa là gì? Những gì ta phải biết rõ, phải thông hiểu tường tận, là
những gì gần gủi với ta nhất, những gì ta thường gọi là bản ngã, cái tôi. Chúng
ta thường quy chiếu cái thân và tâm phức tạp này như là cái tôi. Phần đông
chúng ta, từ khi mới chào đời cho đến lúc chết, tâm ta thường hướng ra ngoài,
tầm cầu không ngưng nghỉ những khoái lạc giác quan, để củng cố bản ngã, để xác
nhận quan niệm về sự hiện hữu của cái tôi. Rất ít người chịu ngồi lại, quán
soi, để trả lời câu hỏi: “Cái gọi là ‘tôi’ thật sự là gì? Cái gì là ‘tôi’ phía
sau những gì thường được quy chiếu vào đó?”
Nếu
ta dừng lại, và chỉ suy tư trong giây phút, ta sẽ thấy đó là câu hỏi quan trọng
nhất cần phải được nêu ra. Nếu, từ ngày bạn sinh ra đến ngày bạn thở hơi cuối
cùng, mỗi khi có ai hỏi: “Anh là ai? Lý lịch của anh là gì?”, bạn chỉ biết cho
họ xem bằng lái xe hay giấy khai sinh của bạn, trong đó có ghi tên tuổi và ngày
sinh, nhưng không biết thật sự mình là ai hay mình là gì, như thế, quả thật là
một điều đáng tiếc cho cuộc hành trình của bạn từ nơi sinh đến nơi chết.
Thực
hành theo lời Phật dạy là phải thẩm tra về những gì ta thường cho là “tôi”,
“bản ngã”, và “của tôi.” Chúng ta thường đồng hóa những từ ngữ này với một cái
gì đó riêng biệt, tồn tại, một chủ thể với một sự xác minh đặc thù. Nhưng Đức Phật
dạy rằng tất cả các ý tưởng đó chỉ là hư vọng. Khi chúng ta nhìn rõ, thẩm tra
về sự quy chiếu của các chữ “tôi”, “bản ngã”, và “của tôi”, chúng ta thấy đó
chỉ là các thành tố của thân và tâm, hay danh và sắc.
Để
giúp ta hiểu rõ hơn, Đức Phật đã phân chia chúng thành năm nhóm, thuật ngữ Phật
giáo gọi là năm uẩn (ngũ uẩn). Kinh điển gọi là “năm nhóm của sự tham thủ” (ngũ
uẩn thủ), vì đó là những gì chúng ta thường bám níu vào đó, với các ý tưởng
“đây là tôi”, “đây là cái ngã của tôi”, “đây là cái của tôi.”
Như
vậy, ta sẽ nhận định được rằng cái gọi là “tôi” và “ngã” thật ra chỉ là năm
uẩn: sắc uẩn, là phần vật chất cấu tạo nên thân thể; thọ uẩn, là các cảm giác
an lạc, khổ đau, và không khổ không lạc; tưởng uẩn, là các chức năng của tâm để
nhận định, suy xét, đặt tên, ghi nhớ đối tượng; hành uẩn, là các chức năng của
tâm để phản ứng, quyết định, tạo hành động; và thức uẩn, là phần nhận thức,
hiểu biết, phát sinh từ sáu giác căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý).
Đối
với mỗi người chúng ta, đây là những gì ta gọi là tự ngã. Công việc của chúng
ta khi hành theo lời Phật dạy là để biết, để hiểu rõ bản chất thật sự của năm
uẩn đó. Từ đó, ta biết được những gì tạo ra lý lịch thật sự của mình. Từ khi
sinh ra, lớn lên, già yếu rồi chết, cả một tiến trình sống này chỉ là một chuỗi
nối tiếp năm uẩn, kết hợp với nhau qua các điều kiện tương quan và các hiện
tượng do nhân duyên sinh khởi.
Sắc
uẩn, hay thân thể vật lý này, là nền tảng, và dựa vào đó, các yếu tố tâm lý
khởi sinh rồi tàn diệt. Qua công phu hành thiền, chúng ta khảo sát thâm sâu,
với chú tâm tinh tế, về bản chất của năm uẩn này khi chúng hiện hữu từ thời
khắc này sang thời khắc khác. Ta thấy chúng khởi sinh, an trụ, rồi tàn diệt, và
từ đó cho ta một nhận thức tường tận về tính vô thường.
Từ
sự thông hiểu về tính vô thường, nảy sinh tuệ quán về khổ, về bản chất bất toại
nguyện của năm uẩn. Từ đó, ta nhận ra rằng năm uẩn luôn thay đổi này là bấp
bênh, không an toàn, không thể tin cậy được, và do vậy, không thể xem như là
cái tôi chắc chắn, trường tồn: chúng là rỗng không, hay chúng là vô ngã.
2)
Công việc thứ hai cần phải làm khi ta thực hành theo lời Phật dạy là “từ bỏ
những gì cần từ bỏ.”
Những
gì cần từ bỏ ở đây là các lậu hoặc. Đức Phật dùng chữ “kilesas” (lậu hoặc) như
là một danh từ tổng quát, để chỉ chung cho tất cả các trạng thái tâm lý tạo ra
đau khổ, không hạnh phúc trong đời sống của ta.
Giáo
pháp của Đức Phật cho chúng ta một đường lối chi tiết để giúp ta khảo sát và
hiểu biết cách thức vận hành của tâm. Nhưng sự khảo sát này không phải chỉ để
thực hiện một cách đơn thuần như môn tâm lý học hiện nay dùng để mô tả sự vận
hành của tâm.
Tâm
lý học Phật giáo xác định rõ ràng và rành mạch về các loại giá trị. Giá trị đạo
đức được trình bày và phân tích rõ ràng giữa thiện và bất thiện, không do dự
hay mơ hồ, vì sự phân biệt rạch ròi về giá trị đạo đức như thế là điều tối cần
thiết để thành đạt ý nguyện của chúng ta là có được hạnh phúc, tránh mọi đau
khổ.
Theo
lời dạy của Đức Phật, các hành động phi đạo đức và trạng thái tâm bất tịnh
không bao giờ có thể đưa đến hạnh phúc thật sự và lâu dài. Mặt khác, hành động
phi đạo đức và trạng thái tâm bất tịnh chắc chắn là mầm mống cho hoạn khổ,
không hạnh phúc.
Thật
ra, trạng thái tâm ô uế, đặc biệt là tâm ích kỷ và tham luyến, thường được đi
kèm với sự sung sướng, khoái lạc. Nếu không như thế, ắt hẳn thế giới này đã có
đầy những bậc giác ngộ. Tuy nhiên, sự khoái lạc đi kèm với lòng luyến ái và
tham lam chỉ là vỏ bọc bên ngoài của một hạt giống xấu.
Khi
hạt giống đó nảy mầm và tạo ra cây trái, nó sẽ mang theo đau đớn và khổ não
ngay trong kiếp này, và nếu không, sẽ trổ quả trong các kiếp sau. Ngược lại,
các trạng thái tâm thiện lành đôi khi có thể đi kèm với vài sự đau đớn, vì muốn
phát triển chúng, ta phải bơi ngược dòng, đối nghịch với khuynh hướng thông
thường của tâm phàm thế.
Nhưng
khi các trạng thái thiện lành trổ quả, chắc chắn chúng sẽ đưa đến hạnh phúc, an
bình, và phúc lợi nội tâm. Đây là một phần của cùng một định luật, định luật về
nhân duyên đạo đức.
Các
trạng thái tâm bất thiện này được gọi là “kilesas”, lậu hoặc. Từ này cũng có
thể dịch là “tai ách, hoạn nạn”, vì chúng mang đến sự đau khổ. Cũng có thể dịch
là “cấu uế, ô nhiễm”, vì chúng làm nhơ bẩn, thối nát tâm chúng ta.
Đức
Phật đã phân tích bản chất của cấu uế và đã giảng giải rất khéo léo về nguồn
gốc của các cấu uế đó, dẫn đến ba gốc rễ của tâm cấu uế là tham lam, sân hận,
và si mê. Công việc của chúng ta khi thực hành theo lời Phật dạy, tức là thực
hành Pháp, là để vượt qua, trừ khử, từ bỏ các cấu uế của tham lam và sân hận vì
chúng làm sinh khởi nhiều nhánh cấu uế khác. Nhưng tham lam và sân hận là bắt
nguồn từ si mê hay vô minh. Vì thế, để diệt trừ tất cả mọi cấu uế, chúng ta
phải diệt trừ vô minh.
Vô
minh che phủ năm uẩn, những gì ta quy chiếu là tôi, của tôi, bản ngã. Cho nên,
cách thức diệt trừ vô minh là phải hoàn tất công việc đầu tiên, “biết rõ những
gì cần biết rõ.” Khi ta biết rõ những gì cần biết rõ, vô minh sẽ rơi rụng; tham
lam, sân hận và các cấu uế khác cũng sẽ tan biến. Không thể nào chỉ có lòng
mong cầu suông là có thể hoàn tất được việc đó.
Chúng
ta không thể chỉ nghĩ đơn giản: “ Tôi muốn biết rõ những gì cần biết rõ” là lập
tức ta thông hiểu tường tận. Đó là lý do tại sao toàn thể pháp hành của Đạo
Phật là một tiến trình để bước đi trên con đường tu tập. Món quà vĩ đại mà Đức
Phật tặng cho thế gian không phải chỉ là một triết lý cao siêu, không phải chỉ
là một môn tâm lý học thâm sâu, mà là một con đường thực tiễn, có hệ thống,
từng bước một, để chúng ta hành trì trong mọi tình huống của đời sống.
3)
Hành trì theo con đường đó nghĩa là “tu tập những gì cần tu tập.”
Đây
là công việc thứ ba Đức Phật thuyết trong bài kệ bốn câu: “Những gì cần tu tập,
Ta đã tu tập.” Ta hành trì theo con đường là để “từ bỏ những gì cần từ bỏ”, đó
là từ bỏ các ô uế hay lậu hoặc. Hơn nữa, ta hành trì theo con đường là để “biết
rõ những gì cần biết rõ”, nghĩa là biết rõ bản chất của năm uẩn.
Thế
nào là tu tập theo con đường này? Nên biết rằng con đường tu tập được bố trí để
chúng ta tiến bước, không đột ngột, không bất ngờ, từ từ từng bước một, giúp ta
trèo lên từng bậc thang để đến tột đỉnh của sự giác ngộ. Ta phải bắt đầu kiểm
soát các lậu hoặc thô tháo, bằng cách thọ trì tuân giữ các điều giới, năm giới
hay tám giới của người cư sĩ. Những điều giới này giúp kiểm soát sự hiển lộ thô
tháo của lậu hoặc, những lậu hoặc có thể bùng ra qua các dạng thức của hành
động bất thiện.
Gìn
giữ giới hạnh không phải chỉ tránh các hành động tiêu cực. Ta cũng phải nuôi
dưỡng các hành động đạo đức, thiện lành. Các hành động tốt lành này giúp tâm ta
được lớn mạnh với các đức tính tinh khiết, trong sạch. Ta phải tập từ bi và tử
tế với mọi người, lương thiện khi giao tiếp với người khác, lúc nào cũng chân thật
khi nói năng, có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, có việc làm chân
chính, siêng năng, kính trọng người khác, biết kham nhẫn, khiêm nhường và ngay
thẳng. Tất cả các đức tính đó sẽ giúp ta từ từ thanh lọc tâm ý, giúp cho tâm
được trong sạch, thông minh, và sáng chói.
Tu
tập những gì cần tu tập, không phải chỉ đơn thuần nuôi dưỡng đạo đức. Cần phải
tiến xa hơn nữa qua sự tu tập thiền định. Khi cố gắng gom thu và tập trung tâm
ý, ta bắt đầu hiểu được tâm ta vận hành như thế nào. Ta có tuệ quán để hiểu
được sự vận hành của tâm ta. Qua sự thông hiểu đó, dần dần ta uốn nắn tâm mình.
Đầu
tiên, ta bắt đầu làm suy yếu các tính chất bất thiện làm uế trược tâm. Ta đang
gạt bớt lớp đất mà cội rễ bất thiện đã bám sâu trong đó. Cần nên nhớ rằng những
cội rễ bất thiện đã ăn sâu trong tâm trong nhiều đời, nhiều kiếp. Tiến trình
thanh lọc này không nhanh chóng mà cũng không dễ dàng. Nó đòi hỏi một nỗ lực
liên tục, bền bỉ, và lâu dài.
Khi
ta kiên trì tu tập như thế, cuối cùng tâm sẽ lắng đọng, tập trung vững chắc. Nó
thu nhận những kỹ năng cần thiết để liên tục bám sát vào một đối tượng, không
lay chuyển, và qua đó, tạo ra cơ hội để trí tuệ nảy sinh. Trí tuệ là đặc tính
thứ ba cần phải được phát triển. Trí tuệ xảy đến qua thẩm tra, trạch vấn.
Đương
nhiên, trí tuệ không phải chỉ phát khởi qua công phu hành thiền. Ngay cả trong
sinh hoạt hằng ngày, khi học hỏi các lời dạy của Đức Phật, nhất là những bài
kinh quan trọng về việc phát triển trí tuệ, chẳng hạn như là các bài về năm
uẩn, lý duyên khởi, Tứ Diệu Đế, chúng ta vấn trạch giáo pháp và từ đó tạo duyên
cho trí tuệ sinh khởi. Ta phát triển trí tuệ trong cấp bậc khái niệm, để đào
sới vào gốc rễ của vô minh. Như thế, qua học hỏi và suy tư về giáo pháp, ta bắt
đầu lay chuyển gốc rễ thâm sâu của vô minh.
Nhưng
trí tuệ tối hậu là phải chứng nghiệm. Khi có được một tâm thức an định, ta dùng
nó để khảo sát năm uẩn. Khi quán sát kinh nghiệm của chính mình, ta nhìn trực
tiếp vào bản chất thật sự của năm uẩn ấy, vào “các tính chất chân thật của mọi
hiện tượng.”
Thông
thường, đầu tiên là thấy rõ được sự khởi sinh rồi tàn lụi của năm uẩn. Nghĩa là
thấy rõ được tính vô thường. Ta thấy vì chúng vô thường, nên chúng là phiền
khổ. Không có gì đáng cho ta phải bám níu vào chúng. Vì chúng là vô thường và
phiền khổ, ta không thể nào xác nhận một trong năm uẩn đó là cái tôi thật sự
hiện hữu. Đây là tính chất rỗng không hay vô ngã của năm uẩn. Điều này đánh dấu
sự khởi sinh của tuệ quán chân chính.
*
Với
tuệ quán, ta càng lúc càng đào sâu vào gốc rễ của vô minh cho đến khi ta hoàn
toàn hiểu biết thông suốt về tính chất của năm uẩn. Khi làm được điều đó, ta có
thể nói rằng mình đã “biết rõ những gì cần biết rõ”. Khi đã hoàn toàn biết rõ
những gì cần biết rõ, các uế nhiễm trong tâm là “những gì cần từ bỏ” được từ
bỏ, và con đường hành đạo là “những gì cần tu tập” được tu tập.
Lúc
ấy, ta thực chứng những gì cần được thực chứng, đó là sự dập tắt mọi phiền khổ
ngay tại đây và ngay trong lúc này. Và, như Đức Phật đã thuyết qua bốn câu kệ
nêu trên, đó là lý do Ngài được tôn vinh là bậc Giác Ngộ.
Bình
Anson (lược dịch)
Tỳ
khưu Bodhi