Cách hiểu này có thể giúp ta có được một quan
điểm sống ôn hòa hơn, khuyến khích mọi người cùng cố gắng duy trì sự
đoàn kết và hòa khí trong cộng đồng. Tuy nhiên, dù sao ta cũng có thể
thấy ngay là ở đây chỉ nêu lên một cách rất chung chung. Trong thực tế,
lắm khi có những trường hợp mà không phải sự nhịn nhục, chịu đựng hay
thối lui bao giờ cũng là giải pháp tốt nhất. Và trong một chừng mực nào
đó, giải pháp “nhịn nhục” còn có phần tiêu cực vì nó góp phần vào sự tồn
tại của những yếu tố xấu trong cộng đồng.
Sự thật là trong mỗi
một tập thể đều có những phần tử xấu nào đó, bởi vì ngay trong mỗi con
người chúng ta cũng đều tồn tại những yếu tố xấu nhất định. Sự nhịn nhục
có thể là giải pháp tốt trong một số trường hợp, nhưng khi đối mặt với
những yếu tố xấu thì nó trở thành tiêu cực, vì nó cản trở sự vươn lên
hoàn thiện của bản thân mỗi người cũng như của cả cộng đồng.
Khi một thành viên có những cung cách ứng xử sai trái, gây tổn hại
đến những thành viên khác trong cộng đồng, sự nhịn nhục đối với anh ta
sẽ là một quyết định sai lầm, có hại cho mọi người và cho cả bản thân
anh ta. Ngược lại, những phản ứng thích hợp cần thiết sẽ giúp anh ta có
điều kiện nhận biết và điều chỉnh hành vi không tốt của mình, và điều đó
không chỉ giúp ngăn ngừa những tổn hại cho mọi người mà còn có lợi cho
chính bản thân anh ta, vì nó giúp anh trở thành một người hoàn thiện
hơn.
Vì thế, nếu hiểu nhẫn nhục là nhịn nhục, chịu đựng, thì cần
thiết phải hiểu thêm rằng đó là sự nhịn nhục, chịu đựng trong những
trường hợp thích hợp. Nói khác đi, cách hiểu như vậy là còn quá hẹp so
với ý nghĩa thực sự của khái niệm nhẫn nhục.
Vậy nhẫn nhục là gì?
Để hiểu được một cách đầy đủ ý nghĩa của khái niệm này, điều tất nhiên
là chúng ta phải quay sang tìm hiểu những sự giảng giải trong kinh luận
của Phật giáo, bởi vì đây là một thuật ngữ Phật giáo được mượn dùng để
dịch từ Kṣānti (Sàn-đề) trong tiếng Phạn.
Trong kinh Phật, hạnh
nhẫn nhục được xếp vào một trong sáu pháp tu gọi là ba-la-mật, nghĩa là
những pháp tu có thể giúp ta đạt đến sự giải thoát. Kinh Giải thâm mật,
quyển 4, giải thích về nhẫn nhục bao gồm 3 ý nghĩa. Một là nại oán hại
nhẫn, nghĩa là nhận chịu những điều tổn hại do người khác gây ra cho
mình. Hai là an thọ khổ nhẫn, nghĩa là có thể an nhiên chấp nhận mọi sự
đau đớn, khổ não. Và ba là đế sát pháp nhẫn, nghĩa là có thể quan sát,
nhận biết đúng bản chất của mọi sự việc để an nhiên chấp nhận. Thêm vào
đó, luận Du-già sư địa quyển 51 mô tả hạnh nhẫn nhục bao gồm ba tính
chất: một là không giận tức, hai là không kết thành thù oán, và ba là
trong lòng không có những ý tưởng xấu ác.
Kết hợp sự giải thích
và mô tả trong 2 bản kinh luận nêu trên, chúng ta có thể hiểu được rằng
nhẫn nhục không chỉ đơn giản là sự nhịn nhục, chịu đựng, mà bao hàm một
sự nhận thức, hiểu biết sâu sắc và toàn diện về đối tượng, sự việc, từ
đó mới dẫn đến sự chấp nhận với một tinh thần từ hòa, không có sự sinh
khởi của sân hận và tư tưởng xấu ác, và vì thế cũng không tạo ra sự thù
hận, oán ghét.
Còn rất nhiều kinh luận khác giảng giải sâu xa và
toàn diện hơn về hạnh nhẫn nhục, vốn được xem là một trong các pháp tu
quan trọng. Tuy nhiên, trong phạm vi chúng ta đang muốn bàn đến thì có
thể tạm chấp nhận một định nghĩa như trên là tương đối hoàn chỉnh. Vấn
đề ở đây là, ngay cả một định nghĩa được giới hạn tương đối như thế cũng
có thể đã là phức tạp và khó hiểu đối với một số người. Vì thế, có lẽ
tốt hơn chúng ta nên nói rộng thêm đôi chút về những điểm chi tiết trong
định nghĩa này.
Trước hết, cả 3 tính chất được mô tả trong bộ
luận Du-già sư địa – không giận tức, không kết thành thù oán và không có
ý tưởng xấu ác – phải được xem là những yếu tố tất yếu, không thể thiếu
được đối với hạnh nhẫn nhục. Khi thiếu đi một trong các yếu tố này, cho
dù ta có chấp nhận, có nhịn nhục được đối với bao nhiêu sự việc đi nữa,
thì điều đó cũng hoàn toàn không thể xem là thực hành được hạnh nhẫn
nhục. Vì thế, thực hành hạnh nhẫn nhục cũng có nghĩa là phải có sự nuôi
dưỡng, phát triển của cả 3 yếu tố này ngay trong tự thân chúng ta.
Thứ
hai, về 3 ý nghĩa được giải thích trong kinh Giải thâm mật, nên được
xem là những trình tự phát triển, những bước tiến tuần tự trong sự thực
hành hạnh nhẫn nhục. Và như thế, ở mức độ cao sẽ bao gồm cả mức độ thấp
hơn trước đó, nhưng khi thực hành một mức độ thấp thì không nhất thiết
ta phải hiểu và thực hành được cả những yêu cầu của mức độ cao hơn. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy là hai mức độ đầu tiên có nhiều sự gần gũi hơn,
và hầu hết chúng ta đều có thể bắt tay thực hành ngay nếu có sự cố gắng,
trong khi mức độ thứ ba lại là một sự hoàn thiện rốt ráo của cả hai mức
độ trước đó, và đòi hỏi một quá trình tu tập dài lâu trước khi có thể
thực sự hiểu và hành trì được ở mức độ cuối cùng này.
Để thấy rõ
hơn nhận xét này, trong những trang sau đây chúng ta sẽ lần lượt tìm
hiểu qua cả 3 ý nghĩa của hạnh nhẫn nhục vừa được nói trên: nhẫn nhục
đối với những tổn hại do người khác gây ra, nhẫn nhục trong những hoàn
cảnh khổ đau, và thấu triệt bản chất của mọi sự việc để có thể nhẫn nhục
với tất cả.
Nguyên Minh