Hôm nay chúng tôi xin nói qua và
giải thích thêm về bản chất của Ðạo Phật để quí Phật tử thấy rõ đạo Phật là bi
quan hay lạc quan. Ðây là vấn đề mà nhiều người muốn biết, nhưng Phật tử chúng
ta đa số vẫn chưa giải nổi. Chúng tôi sẽ nói rõ để quí Phật tử hiểu cho thật
đúng với tinh thần của đạo Phật, tránh bị người xuyên tạc, hiểu lầm.
Trước hết, chúng tôi nói đến quan
niệm mà đa số người hiểu lầm cho rằng đạo Phật là bi quan.
Bởi vì trong đạo Phật, quí Phật tử
thường nghe Phật dạy rằng: "Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước sông
Hằng"...; những câu này xuất phát từ bộ kinh Tạp A Hàm. Trong kinh A Hàm,
Phật dạy rằng: "Con người sanh đi tử lại không biết bao nhiêu trăm ngàn
muôn ức kiếp mà kể". Mỗi đời, chúng ta chỉ khóc khoảng một ít nước mắt thì
gom lại nhiều đời của ta, nhiều đời của người có phải đúng như lời đức Phật đã
dạy không? Phật nói nước mắt chúng sanh nhiều như nước bể cả, nước sông
Hằng..., là căn cứ trên triệu triệu kiếp luân hồi của nhân loại. Ðức Phật muốn
nhắc nhở chúng ta ngay chỉ một đời thôi mà chúng ta cũng đã phải đối diện với
bao nhiêu chuyện bất như ý, phải gánh chịu nhiều nỗi khổ khác nhau không sao kể
xiết, huống là từ đời này sang đời khác. Vì lời dạy này, nên có nhiều người cho
đạo Phật là bi quan. Ðây là điểm thứ nhất.
Ðiểm thứ hai. Quí vị thường đọc kinh
Phật, ai cũng nhớ bài thuyết pháp đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển. Ðó là bài Tứ diệu
đế. Trong đó đế thứ nhất là Khổ đế. Thế là bài thuyết pháp đầu tiên của đức
Phật lại là bài nói về cái khổ. Như vậy có bi quan hay không?
Ðiểm thứ ba. Nếu quí Phật tử nào tu
tập thiền quán theo giáo lý nguyên thủy, tức là quán Tứ niệm xứ: quán thân bất
tịnh, quán tâm vô thường, quán thọ thị khổ, quán pháp vô ngã. Như vậy, trước
hết ứng dụng tu là quán thân này nhớp nhúa, quí vị có còn quí thân không? Nếu
không quí thân thì có chán đời không? Còn quán thọ là khổ của mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, khẩu, ý thì rõ ràng chúng ta nhận ra cái khổ khi tai nghe những lời
không vừa ý, mắng chửi, thị phi... Song nghe tiếng nhạc du dương thì đâu có
khổ, sao đức Phật lại nói nghe cái gì cũng khổ? Lưỡi chúng ta nếm vị đắng cay
thì khổ, nhưng đức Phật nói những vị ngon ngọt cũng khổ. Thọ là khổ.
Qua những điểm vừa nêu, chúng ta
không hiểu sâu, e rằng chúng ta cũng có thể đồng ý đạo Phật là bi quan. Vậy tất
cả đều khổ thì chúng ta phải hiểu thế nào? Nếu không hiểu đúng, quí vị sẽ thấy
đạo Phật dạy chưa phải là chân lý.
Phật dạy cảm thọ có ba thứ: thọ khổ,
thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Nhưng Phật lại dạy chúng ta quán tất cả thọ
là khổ. Ðây là điều tôi muốn giải thích để quí Phật tử hiểu cho kỹ. Sở dĩ đức
Phật nói tất cả thọ đều khổ là vì Ngài căn cứ trên lý vô thường.
Ví dụ lưỡi mình vừa nếm một món ăn ngon thì vị ngon đó kéo dài khoảng bao lâu?
Ở lưỡi thấy ngon, nhưng qua khỏi lưỡi rồi còn ngon không? Hết ngon. Vậy tất cả
cảm thọ dù khổ dù lạc cũng là hiện tướng của vô thường. Mà đã vô thường thì sẽ
đi tới bại hoại. Cho nên nó không thật vui, mà chỉ là hiện tượng của khổ thôi.
Ví dụ, như chúng ta đi chợ, xách một
giỏ xách nặng. Khi đang xách nặng thì vui hay khổ? Khổ. Rồi có ai đó xách giùm
mình, lúc đó khổ hay vui? Vui. Vậy cái vui từ đâu có? Hết khổ thì vui, tạm gọi
là vui. Lại như anh em cha mẹ đi xa. Khi xa thì nhớ nhung buồn khổ, đến lúc gặp
lại thì vui. Tại sao vui? Vì trải qua cái khổ dài quá nên vui. Vui đó gọi là
gì? Vui trong cái khổ chớ có phải vui thật đâu. Bao giờ cái vui cũng nằm trong
cái khổ triền miên. Thế nên nó không thật.
Ðức Phật nói tất cả cảm thọ đều vô
thường, và vô thường là nhân của đau khổ. Ví dụ quý Phật tử thấy người già,
người bệnh, người chết là khổ hay vui? Là khổ. Vậy ba thứ già, bệnh, chết là ba
tướng khổ. Nhưng trẻ có vui không? Hoàn toàn không. Vẫn có chuyện khóc dài dài.
Trẻ vẫn có bệnh, mà mỗi lần bệnh là vui không? Cuộc sống đâu phải lúc nào cũng
êm ả thuận tiện. Như vậy, già, bệnh, chết đã không vui; nhưng trẻ, mạnh, sống
cũng đâu đã vui thật.
Tất cả chúng ta ở trên đời này bị vô
thường bức bách nên đâu thể gọi là vui. Như vậy Phật dạy quán thân bất tịnh,
quán thọ là khổ và quán tâm vô thường có đúng không? Tôi thường nhắc nhở quí Phật
tử rằng người thế gian có lối nói không thực tế. Ví dụ một người nam, một người
nữ thương nhau thì họ thề thốt "Dù cho biển cạn non mòn... tâm họ cũng
không đổi". Nhưng có đổi không? Chỉ một thời gian là thay đổi rồi. Vậy
người thề nói thật hay nói gạt? Họ không nói gạt, nhưng giữ không được. Ðứng về
đạo Phật mà nhìn thì con người thay đổi liên tục không ngừng nghỉ.
Thay đổi có hai chiều, tốt và xấu.
Có khi cái dở cái xấu thành cái tốt. Có khi cái tốt lại đổi ra cái xấu, cái
thành ra cái hoại, cái hoại ra cái diệt, cái bình thường đến cái tệ. Ngay nơi
mình, mình còn không tin được lòng mình luôn ở một chỗ. Cho nên cái gì mình nói
là hay, là quan trọng đều không có lẽ thật. Ðức Phật dạy tâm tưởng con người
cũng là vô thường. Như vậy có bi quan không? Bởi vì hôm nay hứa hẹn với nhau
rồi, vì một lẽ gì đó mà không thể thực hiện được làm cho người khác mất tin
tưởng, khổ sở, bi quan.
Kế đó Phật dạy quán các pháp
vô ngã. Hay gần hơn là quán thân này vô ngã. Tức là ngay thân này cũng
không có cái gì là chủ tể, đều do duyên tứ đại sum họp, gọi đó là thân. Và khi
tứ đại tan rã thì mất, đâu có gì trường tồn vĩnh viễn. Ðã chẳng có cái mình
thật thì có nên buồn không? Như vậy có phải là một mặt nữa của bi quan không?
Ðức Phật dạy thân này như huyễn như
hóa. Nếu căn cứ theo đó mà người ta cho rằng đạo Phật là bi quan yếm thế, có
đúng chưa? Rất là hợp lý. Vì vậy ai mới tìm hiểu đạo Phật chút ít, thấy những
điều vừa mới nói sẽ cho rằng đạo Phật bi quan, theo đạo Phật buồn quá. Hoặc
Phật tử nghe thế rồi thấy cũng đúng, đâm ra bi quan không muốn tu. Ðó là bệnh
làm cho chúng ta thối tâm.
Giờ đây, tôi nêu thêm một điểm nữa
để quí Phật tử suy nghĩ. Thường người bi quan thì dễ chán đời, có khi tự tử
nữa. Vậy tại sao nói đạo Phật là bi quan mà lại có những câu như: "Thân
người khó được, cho dù nó là nhớp nhúa, là vô thường". Vậy có mâu thuẫn
không? Trong Tạp A Hàm, có một bài kinh Phật dạy rằng: "Người ở thế gian
khi mất thân này rồi, muốn tìm lại được thân kế, khó như rùa mù tìm gặp bọng
cây ở giữa biển". Ở giữa biển cả, có một bọng cây nổi trên mặt nước, dưới
đáy biển có con rùa mù một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Khi trồi đầu lên
nó tìm bọng cây để chui vào. Quý vị nghĩ nó tìm đến chừng nào mới gặp. Bởi mặt
biển lúc nào cũng có sóng, không sóng to thì sóng nhỏ, biết bao giờ mới gặp
bọng cây mà chun vô? Nếu chưa chun được thì lại phải lặn xuống đáy biển trở lại
chờ đến trăm năm khác. Vậy thân này quí không? Người Phật tử nếu có việc buồn
chán mà tìm đến sự tự hủy diệt mình thì vị Phật tử đó có hiểu đạo chưa?
Quí vị thấy tại sao ban đầu thì chê,
sau lại dạy phải quí trọng thân này? Ðây là điều mà tôi muốn nêu ra cho quí vị
thấy rõ. Ở trong sách nhà phật có câu: "Thiên niên thiết thọ khai hoa dị,
nhất thất nhân thân vạn kiếp nan". Thiết thọ tức là cây Trắc (Thiết mộc
lan) một ngàn năm mới trổ hoa một lần. Vậy mà còn dễ, chớ mất thân này thì muôn
kiếp khó tìm lại được.
Chúng ta thấy trong đạo Phật nhìn sự
vật có hai mặt, một mặt chê cái thân này, một mặt lại quí trọng thân này. Tại
sao? Tôi ví dụ có người đi biển bị chìm thuyền, sau đó họ bơi ra ngoài vớ được
gốc cây mục. Nếu người thông minh phải ôm chặt gốc cây mục này để bơi vào bờ
hoặc chờ có người cứu. Lúc ấy, gốc cây mục này đối với chúng ta là quí hay
tiện? Rất quí. Vì cần có nó để cứu mạng sống của mình. Khi chúng ta bám được
gốc cây mục và nhìn xa xa là bờ, thì chúng ta chần chờ ôm nó hoài đợi đến ngấm
nước cây rã, chúng ta chết giữa biển; hay ôm chặt nó mà bơi cho mau tới bờ. Và
khi tới bờ rồi có quảy gốc cây mục đi theo không? Nếu có người không làm như
vậy thì họ có thông minh chăng?
Thấy vậy để hiểu thấu đáo, cách nhìn
của đạo Phật đối với thân này. Thấy nó không quí, không sạch, không đẹp, không
thật là chỉ chúng ta một sự thật. Chúng ta thấy những hãng chế nước hoa, chế xà
bông thơm để che mất mùi hôi và giảm bớt cái thô nhám bẩn thỉu của thân. Nếu nó
tự thơm như hoa sen thì đâu cần gì phải nhọc công chế tạo nước hoa, xà bông để
giúp cho con người sạch ra, thơm ra bên ngoài. Thế mà vừa xức chút ít nước hoa
rồi lại tưởng như mình sạch mình thơm vậy. Ðó chỉ là cái tưởng thôi, chớ đâu có
thật. Vậy đạo Phật có dạy chúng ta đều chân thật không? Rõ ràng là có.
Trong kinh nói, khi đức Phật mới
thành đạo ở dưới cội cây bồ đề, lúc đó có một đám ma quái tới phá. Chúng giả ra
những vũ nữ đẹp quyến rũ đẹp đẽ quyến rũ dụ dỗ Ngài trở về cung thọ hưởng an
vui. Ngay khi đó Ngài liền nói: "Túi da hôi thúi hãy đi đi, ta không cần
các ngươi". Bọn họ xấu hổ lui mất. Vậy đức Phật thấy thân này ra sao? Như
cái túi đựng đồ nhơ uế chớ không có gì quí. Cái thấy đó có đúng không? Hoàn
toàn đúng.
Ðức Phật dạy chúng ta thọ là
khổ, tâm là vô thường. Ðây là sự thật. Nhưng ở đời chúng ta ít dám nhìn
nhận sự thật. Ai chỉ dạy thì mình nói là cần nghe, cần học để tìm chân lý.
Nhưng khi họ nói sự thật thì ta lại giận, lại không thích. Quí vị có sợ sự thật
không? Giả sử như có ai đó tới nhà đầu năm, nói: "Anh chị mạng sống trong
hơi thở", quí vị có buồn không? Buồn chớ. Buồn lắm mà chắc còn giận nữa.
Còn đầu năm mà đến chúc tụng: "Anh chị sống trăm tuổi", quí vị có vui
không? Vui lắm. Lời nói chúc sống thăm tuổi là lời nói không thật, còn nói anh
chị sống trong hơi thở là lời nói thật. Thế mà ta đâu có thích nghe. Như vậy
không phải chính ta cũng đang chọn sự giả để làm vui là gì?
Nói ra những việc bình thường để quí
vị thấy được lẽ thật. Cái lẽ thật mà trong chúng ta ít ai dám nhìn, còn bịa
chuyện để tán với nhau. Tới nhà thì kiếm chuyện gì để khen nhau, dù cho có
những điều không đáng khen, không thật để khen, khen cho được lòng. Và nếu mình
khen cho người vui lòng, thì người cũng khen lại cho mình được lòng. Không ai dám
nhìn, dám nói ra sự thật, chỉ là tán dóc với nhau. Nhưng họ lại tin rằng đã nói
với nhau toàn những điều chân lý. Nói như vâỵ, để thấy cuộc sống của chúng ta
không có lẽ thật, mà lại cứ như là đã nói hết sự thật, và sống với sự thật.
Từ đây tôi muốn nhắc nhở với quí vị đạo
Phật là đạo thấy như thật, nói như thật. Thấy thế nào nói thế ấy, chớ
không có lừa, không có bịp chúng sanh. Tôi hỏi quí vị, mình nói thật và mình
nói bịp nhau, cái nào có hại, cái nào có lợi?
Ví dụ người đó xấu, mình nói họ xấu,
như vậy nếu người biết nghe lẽ thật thì họ không làm điều bậy nữa. Còn nếu họ
xấu mà cứ khen họ, họ tưởng thật càng làm bậy hơn. Vậy thì ai thiệt hại? Còn
chúng ta nói sự thật cho họ biết để họ đừng gây thêm tội nữa, đừng làm quấy
nữa, chính là chúng ta đang cứu họ.
Tuy nói vậy chớ ít ai dám nói lẽ
thật lắm. Hơn nữa, nói sự thật đôi khi đương sự không thèm nghe mà trở lại giận
ghét, ngầm hại người cho mình biết sự thật nữa. Người ta thường than: "Ở
đời khó quá!" Khó là vì ai cũng sợ sự thật hết. Sở dĩ người ta kết tội đạo
Phật là bi quan là vì đạo Phật nói lẽ thật, không lừa người.
Những điều tôi kể ra, có điều nào
Phật nói không đúng không? Biết sự thật, nghe sự thật mà người ta nói bi quan,
đó là lỗi tại ai? Tại cái điên đảo của con người chớ không phải lỗi tại Phật.
Ðã biết thân không quí vì nhơ nhớp,
vì không lâu bền, nhưng lại khó được, mất rồi khó tìm. Quí vị có nên suy nghĩ
để tìm một hành động đúng cho mình không?
Ðức Phật chỉ rõ dù thân không lâu
bền, nó nhớp nhúa, nhưng chúng ta phải nương nó để khi thân rã, chúng ta đã
tiến, đã an vui. Chúng ta có thân là phương tiện
tiến lên để đi đến chỗ an lành. Tuy nó bất tịnh, vô thường, hôi hám, nhưng
chính nó sẽ giúp chúng ta tiến tu. Cho nên khi còn có nó, chúng ta nương đó để
làm điều gì cho mình, cho người được an vui, lợi ích. Chính điều đó là cái sáng
suốt của mình. Ngược lại, như ôm khúc gỗ mục ngoài biển mà không chịu vào bờ,
để rã và chìm chết, rõ ràng vô ích. Ngay khi thân này còn mạnh khỏe, chúng ta
phải làm gì?
Trong kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy, người
Phật tử biết rõ thân nhớp nhúa vô thường, nhưng phải mượn nó để tu cho mau,
giống như người bị lửa táp cháy đầu, phải dập tắt liền chớ không thể đội về
nhà. Tức là chúng ta phải gắng sức tu, phải biết bòn góp phước đức, để tự cứu
mình khi mất thân này. Nếu mất thân này mà còn mang theo nhiều tội ác, phải làm
thân chó sói, thì có tu được không? Suốt đời còn giết thêm bao nhiêu mạng nữa?
Thế nên người đi theo chánh đạo
trước hết phải giữ năm giới. Giáo lý đức Phật có năm thừa để mọi
người nương theo đó mà tu. Thừa thấp nhất gọi là Nhân thừa Phật giáo, tức là
dạy người tu đời này làm người xứng đáng, đời sau trở lại cũng làm người xứng
đáng. Nhân thừa Phật giáo lấy căn bản năm giới làm gốc, đó là: Không sát sanh,
không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.
Quí Phật tử nghĩ lại xem mình có giữ
đủ chưa? Nếu không giữ được thì e rằng tụt xuống khó tìm lại. Như tôi đã nói
với quí Phật tử, từ khi quy y là giữ giới không sát sanh, đời sau sanh ra thọ
mạng dài, sống lâu. Giữ giới không trộm cướp, đời sau sanh ra giàu có không bị
xâm hại. Giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra được thân thể đẹp đẽ. Giữ giới
không vọng ngữ, đời sau sanh ra chúng ta được lời nói lưu loát. Giữ giới không
uống rượu, ai nghe cũng thương cũng quí, đời sau sanh ra được trí tuệ thông
minh.
Năm giới đó nếu giữ được trọn đời
này là tốt. Ðời sau sanh ra đủ năm điều kiện đó có phải là hạnh phúc sung sướng
hay không? Chúng ta tu gấp tức là tu theo như chúng tôi vừa nói, để hiện tại và
đời sau chúng ta hiện diện trong đời với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp. Còn
như tiến hơn chút nữa được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nếu tu Thập thiện thì đời
sau được sanh lên cõi Trời cao hơn. Còn nếu tu pháp Tứ đế thì đời sau chúng quả
A La Hán, xa hơn nữa là chứng quả Duyên Giác...
Chúng ta chỉ cần tu làm sao cho đúng
với chánh pháp, đừng để rơi xuống đường thấp vì mang nhiều nghiệp ác. Quí vị
ráng giữ cho tròn. Các Phật tử tự kiểm điểm thấy phần nào thiếu, dở thì ngay
bây giờ còn kịp để tu sửa những sai lầm thiếu sót ấy. Vậy phải nên lo sửa cho
gấp.
Phật dạy chư Tăng là những vị có
trách nhiệm nhắc nhở chỉ bảo cho Phật tử tu, đừng để mất thân này thì khó tìm
lại được. Thương Phật tử là phải giảng giải, chỉ rõ cái chân thật mà đức Phật
đã chỉ, nhắc nhở cách tu sửa thân tâm mà đức Phật đã tu; chớ không phải hôm nay
tới chùa ăn cơm chay, ngày mai tới nhà cúng tụng cầu an cho Phật tử, bửa kia đi
thăm... Như vậy không gọi là thương, mà thương chính là làm sao giúp cho Phật
tử tiến tu, để đời này được làm người tương đối tốt, đời sau càng tốt hơn. Vì
vậy cứu người trong đạo Phật là cứu ngay từ cái nhân, chớ không phải cứu ở cái
quả. Song, thường thì cứu quả được người mang ơn, còn cứu nhân lại bị người
giận oán.
Ví dụ, có hai người đang gây gỗ sắp
đánh nhau. Chúng ta khuyên: "Thôi! Anh hay chị nhịn nhau đi. Gây gổ đánh
nhau chỉ khổ thôi, không có lợi lộc gì". Khuyên như vậy nhưng họ không
nghe, vẫn cứ đánh nhau đến lỗ đầu, chảy máu. Lúc đó, nếu người nào thấy thương,
đến băng bó cho họ thì họ cảm ơn người kia rối rít. Nhưng họ quên rằng dù có cảm
ơn người băng bó thì mình cũng đã mang thương tích rồi. Trong khi người khuyên
mình lúc ban đầu giữ trọn vẹn, đừng để xảy ra thương tích thì mình đâu biết
mang ơn. Quí vị thấy việc nào quí hơn? Ðúng ra ta phải cảm ơn và quí trọng
người nhắc nhở mình khi chưa xảy ra chuyện đáng tiếc mới phải lẽ, chớ đợi tới
chuốc quả rồi mới được cứu thì e đã quá muộn. Dù có cứu được, cũng chỉ đỡ phần
nào, chớ làm sao trọn vẹn như buổi đầu.
Hiểu như vậy các Phật tử mới kính
trọng quí thầy quí cô xuất gia. Các vị ấy tuy ít làm việc từ thiện xã hội mà
lại nhắc nhở, giảng giải khuyên tu nhiều hơn, ấy là vì tu sĩ Phật giáo đặt nặng
việc cứu nhân hơn cứu quả. Ðôi khi, Phật tử suy nghĩ cảm thấy buồn, cảm thấy
đạo Phật không biết thương người, không cứu giúp người. Ví dụ có một người đạp
xích lô, mỗi ngày kiếm được chừng ba bốn chục ngàn. Với số tiền ấy, nếu họ
quyết tình nuôi gia đình vợ con cũng có thể sống được. Nhưng nếu người đạp xích
lô đó ghiền rượu, thì chỉ cần đến quán nhậu sau một ngày đạp xích lô là sạch
túi, vợ con ở nhà nheo nhóc đói khát. Có người láng giềng thấy thương, mỗi ngày
đem cơm gạo cho, để giúp đở vợ con ông qua cơn đói khát. Việc làm ấy có thể kéo
dài mãi được không? Nếu không thì vợ con người đạp xích lô sẽ sống ra sao? Chắc
phải chết thôi. Ðối với người láng giềng giúp đở đó, chúng ta thấy việc làm ấy
là tích cực, là làm phước. Nhưng nếu có một thầy tới khuyên can người đạp xích
lô thức tỉnh, bỏ uống rượu, trở lại lo lắng cho gia đình. Như vậy việc làm của
thầy so với việc làm của người láng giềng, việc nào có giá trị hơn, có công đức
hơn? Khi giảng giải, giúp cho người lầm lỗi thấy được, hiểu được và tự sửa chữa
được những khuyết điểm của họ là chẳng những cứu cả cuộc đời của người đó, mà
còn cứu luôn gia đình thân quyến của họ. Công đức ấy không thể lấy tiền của mà
sánh được. Ðó là cứu nhân theo đức Phật dạy.
Hiện nay Phật tử chúng ta thường
quên cái nhân, chỉ khi nào gặp quả khổ mới chịu tu. Lúc vui quên Phật, lúc khổ
mới nhớ Phật. Như vậy chỉ biết Phật khi khổ chớ không biết Phật khi khỏe mạnh
vui tươi. Như vậy đợi đến lúc già yếu, đau đớn mới chịu nhớ tới Phật thì e rằng
không còn kịp tu nữa. Vì vậy Phật tử nên hiểu và cố gắng tập tu ngay khi còn
trẻ, còn khỏe mạnh thì về sau mới không bị đau khổ bức bách.
Quí Phật tử thấy, từ một người, trăm
người, ngàn người cho đến một xóm một làng, nếu ai cũng giữ được năm giới thì
xóm làng ấy có thể thành thiên đường không? Trong một xã hội không có ai hại
ai, không có ai lừa đảo người, không có người lừa đảo ai... thì xã hội đó, quốc
gia đó an lành, đẹp đẽ, văn minh biết chừng nào. Thế nên biết người Phật tử
quyết tâm giữ được năm giới là một người xứng đáng đối với quốc gia xã hội, đối
với đạo pháp, không những trong hiện tại mà còn xứng đáng hơn nữa ở mai sau.
Trong bài giảng này, tôi không nói
những gì cao siêu quá, chỉ nhắc nhở những điều gì quí Phật tử có thể làm được,
tu được. Kết quả của quí vị cũng chính là phần khích lệ đối với chúng tôi, dù
quí vị tu là tu cho quí vị chớ không phải tu cho chúng tôi Nhưng chỉ cần quí vị
giữ cho ba nghiệp của mình ngày càng tốt lành để đời sau được đi lên, chớ không
phải tuột xuống là chúng tôi mừng rồi. Chỉ cần Phật tử chịu nghe lời chân thật
khuyên bảo của quí thầy, quí cô, không chạy theo sự dối gạt hoa mỹ của thế gian
là quí Phật tử biết tu nhân đúng đắn, tránh được quả khổ về sau.
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta
phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám
mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ, già có cái chết của già. Nếu không
lo tu thì vô thường đến làm sao trở tay kịp. Trên đường tu, chúng ta phải nhìn
cho kỹ, thấy cho rõ, đừng lầm lẫn.
Từ trước đến nay chúng ta nói những
điều: Thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, hay nước mắt chúng sanh nhiều
như nước biển... Tất cả đều cốt chỉ ra lẽ thật của con người cho quí Phật tử
thấy rõ. Khi thấu hiểu được lẽ thật của con người cho quí Phật tử thấu rõ được
lẽ thật đó rồi, chúng ta mới quyết tâm tu, cố gắng tu, để không bị khổ đau
trong đời này và đời sau. Như vậy đạo Phật lạc quan hay bi quan? Vì nói thật
nên mới nghe như bi quan, nhưng nhờ thế chúng ta biết lẽ thật để sửa đổi, để
vươn lên. Ngược lại nếu lừa dối nhau thì sẽ cùng nhau bị tai họa, bị chìm đắm.
Hiểu vậy, tất cả Phật tử mỗi người phải cố gắng theo như lời Phật dạy: Tu
như lửa cháy đầu. Phải kiên trì tinh tấn tiến lên. Từ năm giới căn bản
tiến dần lên đừng để tuột xuống. Nếu để tuột xuống, lỡ mất thân người thì cả
trăm nghìn năm sau khó mong tìm lại. Quí Phật tử nếu siêng năng tu tập sẽ không
còn hoang mang lo sợ sống chết. Nếu sắp tắt thở, có người hỏi đi đâu thì nói:
Tôi sẽ trở lại làm người tốt hơn, cao quí hơn. Người ấy sẽ được an lành trước
khi, trong khi và cả sau khi nhắm mắt. Ngược lại nếu không tu giữ được năm giới
thì sẽ hoảng hốt sợ sệt không biết rơi vào đường nào. Thật khổ vô cùng!
Các Thiền sư khi gần nhắm mắt thường
mĩm cười từ giả ra đi. Còn kẻ thế gian, lúc gần tắt thở, những người thân chung
quanh khóc than thảm thiết khiến cho kẻ ra đi bi lụy luyến tiếc. Còn những
người đi trong bơ vơ, trong đau khổ thì còn buồn tủi biết bao nhiêu nữa.
Cho nên chúng ta khuyên cha, khuyên
mẹ, khuyên anh, khuyên em ráng tu giữ năm giới làm gốc. Nếu cha mẹ giữ được năm
giới thì người con sẽ yên lòng và ngược lại, người con giữ được năm giới thì
cha mẹ vui vẻ, nhẹ nhàng biết bao.
Từ đó quí vị thấy việc tu hành thiết
yếu đến thế nào. Hồi Phật còn tại thế, sau khi thành đạo rồi, Ngài trở về thành
Ca Tỳ La Vệ giảng dạy cho phụ vương (Tịnh Phạn) và hoàng hậu (Ma Ha Ba Xà Ba
Ðề) năm giới. Sau đó, hoàng hậu phát tâm xuất gia. Bà liền cùng năm trăm vị
công nương đi đến chỗ Phật, xin Phật xuất gia. Phật không cho, bà năn nỉ đôi ba
phen, Phật cũng không chấp thuận. Lúc đó Tôn giả A Nan thấy vậy xót ruột, mới
vào thưa với Thế Tôn: "Hoàng hậu có công lớn với Thế Tôn, từ lúc hoàng hậu
Ma Da mất sau khi sanh Thế Tôn có bảy ngày, bà là người nuôi Thế Tôn cho đến
lớn khôn, công lao biết bao nhiêu? Sao giờ đây Thế Tôn không cho bà xuất gia?
Chẳng lẽ Thế Tôn đã quên ơn người?" Phật trả lời: "Ta không quên ơn
mà ta đã đền ơn bà rồi". Ngài A Nan ngạc nhiên hỏi Thế Tôn đền ơn bằng cách
nào. Phật nói: "Khi ta thành đạo, trở về thành Ca Tỳ La Vệ, ta đã khuyên,
giải thích cho phụ vương và hoàng hậu hiểu được đạo lý, phát tâm qui y Tam bảo,
gìn giữ năm giới hạnh. Ðó là ta đã đền ơn".
Như vậy người con đền ơn cha mẹ,
không gì hơn là lúc cha mẹ còn sanh tiền, khuyên cha mẹ siêng tu, giữ gìn năm
giới để khi chết khỏi đọa đường khổ. Ðó mới thật là thật thương, thật hiếu; chớ
làm ra nhiều tiền chờ lúc chết làm đám ma cho lớn... chưa chắc đã cứu được cha
mẹ. Thế đó đâu gọi là thật thương.
Quí Phật tử nghe tôi giải thích rồi,
đã thấy tu theo đạo Phật là lạc quan chớ không phải bi quan. Tại sao? Bi quan
là buồn, lạc quan là vui. Còn đạo Phật không buồn không vui. Bởi vì đối với thế
gian, được thì vui, mất thì buồn, khen thì sung sướng, chê thì giận khổ. Cái
vui buồn thế gian là vui buồn đối đãi, vô thường, không có sự thật. Mà đã không
sự thật thì chúng ta đừng dính, đừng mắc. Song thông thường, ai cũng dễ vui khi
được khen, dễ buồn khi bị chê. Nếu chúng ta biết lẽ thật rồi thì có gì vui, có
gì buồn. Ðạo Phật là đạo chỉ cho chúng ta lẽ chân thật, nhận ra được sự thật
rồi, sống đúng như thật. Sống được như lời đức Phật dạy thì đâu còn gì buồn,
đâu còn gì phiền não. Ấy là vui.
Phật, người Trung Hoa gọi là Giác;
Phật là chỉ cho bậc đã giác ngộ, nên những gì Ngài dạy là lẽ thật từ sự thấy
biết của bậc giác ngộ mà ra. Là đệ tử Phật, chúng ta tin những lời của Phật
bằng lẽ thật chớ không phải tin theo sự tưởng tượng, ép buộc. Tin rồi chúng ta
phải ứng dụng tu để tự cứu mình thoát khỏi cảnh khổ, đồng thời cũng giúp được
mọi người cùng vươn lên, tiến lên, không còn bị trầm luân trong sanh tử nữa. Vì
vậy, chư Tăng Ni vâng lời Phật dạy, gắng công tu hành, nhắc nhở quí Phật tử.
Phần còn lại là phần của quí Phật tử. Tiến lên con đường an vui, tươi đẹp
hay rơi xuống nẻo khổ tối tăm, xấu xa là do quí Phật tử tự định đoạt vậy.