Sinh ra và lớn lên trong thế gian này, chúng ta đã mang theo mình những
hành động từ quá khứ để nhận lấy những kết quả trong đời sống hiện tại,
rồi mất đi và tiếp tục thu thập hành trang cho đời sống vị lai. Suốt
quá trình mà chúng ta đã và đang nhận lấy rồi mất đi những gì từ nội
thân hay ngoại cảnh đó được gọi là đời sống, kiếp sống, kiếp người vv.
Gọi là đời sống, kỳ thật chỉ là một quá trình duy trì, hoạt động của
thân và tâm theo thời gian của tuổi thọ. Trong quá trình sống ấy, bằng
hết cả ý chí ( cetanà_tư tâm sở_ nghiệp) , tận dụng bằng mọi phương
tiện, hội nhập trong mọi hòan cảnh, chúng ta tìm cách thoả mãn sáu giác
quan của mình bằng sáu đối tượng của nó. Những đối tượng đó theo tâm lý
học Phật giáo là màu sắc hình dạng, âm thanh, mùi, vị, đối tượng xúc
chạm và đối tượng của ý nghĩ ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần).
Nói cách khác, chúng là những tiện nghi vật chất theo nhu cầu của con
người như nhà cửa, xe cộ, những phương tiện giải trí như ca nhạc, hội
hoạ, bóng đá, du lịch, những món ăn, y phục thời trang, mỹ phẩm, tiền
bạc, địa vị vv và vv…
Theo Phật giáo, những tiện nghi ấy, những phương tiện ấy có
được, một phần là kết quả của nghiệp thiện, phước báo mà chúng ta đã làm
trong quá khứ, một phần do sự làm việc bằng nghề nghiệp chân chính của
chúng ta từ chất xám và đôi tay trong hiện tại. Chúng ta nhận được và
hưởng thụ chúng là hoàn toàn hợp lý.
Đức Phật không hề kêu gọi người Phật tử, hay mọi người phải cam
chịu sống đời nghèo khổ, không được hưởng thụ, không được làm giàu. Vấn
đề ở đây là làm giàu, tạo ra của cải vật chất trên cơ sở hành động nào
và thái độ hưởng thụ chúng như thế nào.
Đức Phật có giới thiệu bốn nguyên tắc đem đến hạnh phúc cho người Phật tử trong đời sống hiện tại:
1, Đầy đủ nghề nghiệp mưu sinh_ Phương tiện cụ túc:
Có nghề nghiệp để mưu sinh, ổn định, giỏi kỹ thuật, làm một cách
chuyên cần, bằng sự tư duy tự mình làm hay hướng dẫn, quản trị người
khác làm để phát triển nghề nghiệp ấy; xây dựng đời sống đầy đủ về vật
chất bằng phương tiện chân chính. Đối với người thanh thiếu niên thì
phải học văn hoá, nghề nghiệp.
2, Đầy đủ sự bảo vệ_ thủ hộ cụ túc:
Đối với những tài sản làm ra được, do lao động đổ mồ hôi một cách chân
chính, thu hoạch đúng pháp thì giữ gìn, phòng hộ và bảo vệ chúng, không
để bị mất mát bởi vua chúa quan quyền, trộm cướp, hoả hoạn, bão lụt, hay
các người con hư hỏng.
3,Làm bạn với thiện_ thiện tri thức cụ túc:
Sống ở đâu, có những người thanh thiếu niên hay người đứng tuổi, mà có
những đức tính như lòng tin, có giới đức, có bố thí, có trí tuệ thì
chúng ta tìm cách làm quen, tiếp cận. Đối với ai có đức tính gì thì học
tâỉp đức tính ấy và thực hành theo. Đây là làm bạn với thiện.
4,Sống quân bình với tài sản _Chánh mạng cụ túc.
Sau khi biết rõ số lượng tài sản xuất nhập của mình thì sinh sống điều
hoà, không quá phung phí hay quá bỏn sẻn. Như người cầm cân biết rằng
với chừng ấy cân bổng lên, với chừng ấy cân hạ xuống. Khi thu nhập ít,
không sống phung phí; khi thu nhập cao không keo kiệt bỏn sẻn, cơ cực.
Có bốn cửa làm phung phí tài sản đã có: đam mê sắc đẹp; rựơu chè;
cờ bạc; làm bạn với kẻ xấu, thân thiết với kẻ xấu, giao du với kẻ xấu.
Có bốn cửa để giữ gìn và làm cho tài sản được phát triển: không
đắm say sắc đẹp; rượu chè; cờ bạc; bạn bè với người thiện, thân thiết
với người thiện, giao du với người thiện.
(xem rõ Tăng chi bộ_IV 54 Dighajanu_ bản Việt_ĐTKVN_ trang 661; Tạp A Hàm kinh 91_ Đại chính II, trang 23 a)
Đức Phật giới thiệu cách xử dụng tài sản như sau:
Tài sản làm ra nên chia làm bốn phần.
Một, dùng cho những nhu cầu cần thiết trong đời sống hàng ngày như ăn, mặc, ở….
Hai, để dành xử dụng khi bệnh hoạn, già yếu.
Ba, Bỏ vào vốn để phát triển vốn.
Bốn, chia thành ba phần dùng gieo vào ba loại ruộng phước ( phước điền).
a, Phụng dưỡng cha mẹ ( Ân điền)
b, Cúng dường Tam bảo (Kính điền)
c, Giúp đỡ người nghèo, người bị tai nạn, giúp đỡ chúng sinh ( Bi điền)
Đời sống của cá nhân nào dựa vào các nguyên tắc trên sẽ đưa đến
hạnh phúc của người thế tục nếu ngược lại là dẫn đến đau khổ ngay trong
đời hiện tại.
Tuy nhiên, ý nghĩa của hạnh phúc về mặt thế tục thì dù với định
nghĩa bằng cách nào đi nữa, tuỳ theo quy ước của xã hội nào đó, văn hóa
của dân tộc nào đó, hay quan niệm của người nào đó quy định thì hạnh
phúc ấy cũng dựa trên những khái niệm trừu tượng. Những khái niệm trừu
tượng ấy phát sinh dựa trên vật lý, sinh lý, tâm lý của chúng ta, giới
tính, tuổi tác, trình độ kiến thức, phong tục tập quán, xã hội, gia
đình, bạn bè; có cả văn minh, văn hoá, quan điểm chính trị ở nơi ta đang
cư trú Vì vậy, khi chúng ta mong muốn có được hạnh phúc trong đời sống
hiện tại, chúng ta sẽ có ý tưởng cố gắng đạt cho được những mục đích
theo tiêu chuẩn nào đó của xã hội theo những khái niệm mà chúng ta bị
ảnh hưởng.Như thế, Chúng ta không hề thật sự có hạnh phúc theo ý muốn
riêng ta. Những gì mà chúng ta cho là hạnh phúc phải tuỳ thuộc rất nhiều
yếu tố khác, vừa chủ quan vừa khách quan. Hạnh phúc thế tục luôn có các
điều kiện của nó. Hay nói cách khác,hạnh phúc mà chúng ta đang mong
cầu, tìm kiếm chỉ là những cảm giác thích thú do các giác quan cộng
hưởng với đối tượng của chúng dựa trên những khái niệm của chúng ta về
chúng.
Tại sao? Nếu dựa trên những tiêu chuẩn, những khái niệm, quy định nào
đó của xã hội mà có hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người thì tại sao
cùng hòan cảnh, cùng trường hợp như nhau, đối với người này thật là hạnh
phúc, nhưng đối với người khác lại thật là đau khổ. Một người tự nguyện
sống ít muốn biết đủ thì họ sẽ hạnh phúc với những gì họ có được trong
đời sống thiếu thốn. Họ sẽ sống hạnh phúc trong đời sống rẩt hạn chế về
tiện nghi, vật chất. Nhưng đời sống đó lại là đau khổ cho người mong
muốn đầy đủ và không bằng lòng với những gì đang có.
Ngay cả một người đang sống trong thành công, giàu có, đầy đủ, có quyền
lực xã hội, gia đình tốt đẹp nhưng nếu họ đang bị lệ thuộc vào những
cái đang có thì họ đang sống trong đau khổ, sợ hãi bởi sự lệ thuộc đó.
Như một người bị trói bằng cái còng vàng bị mất tự do thì cũng đau khổ
như người bị trói bằng còng sắt.
Theo quan niệm của Phật giáo hạnh phúc thế gian thật sự là sự hỷ
lạc từ sự thụ hưởng những gì chúng ta đang có do thiện nghiệp mà chúng
ta đã và đang làm, cùng với ý chí và hiểu biết theo giáo pháp.
Tuy nhiên, sự hạnh phúc thực sự ấy, cũng như tất cả các pháp khác
trong đời sống luôn luôn đang bị chi phối bởi luật chuyển biến (vô
thường), tồn tại do tuỳ thuộc nhau (vô ngã), không hoàn hảo tuyệt đối
(khổ). Hay nói cách khác, hạnh phúc mà ta đang cảm nhận thật sự rất mong
manh, luôn luôn chuyển biến sinh diệt, tuỳ thuộc và vẫn đang trở thành
cái khác từng giây phút.
Sự vô thường, vô ngã, khổ ở đây, không hề có nghĩa bi quan, tiêu
cực, đau khổ, thay đổi theo chiều hướng xấu như suy tàn, sụp đổ, thất
bại, chết chóc như một số người đã ngộ nhận, và một số Phật tử cũng hiểu
như thế.
Vô thường là sự thay đổi, là sự thật hiển nhiên chứ không tích cực
hay tiêu cực gì cả. Vô ngã là sự tuỳ thuộc để tồn tại.Khổ là sự không
hoàn hảo, không trọn vẹn để trở thành. Như vậy, vô thường cũng có nghĩa
là thay đổi tốt hơn hay xấu hơn, lớn hơn hay nhỏ hơn so với cái cũ. Sự
khác nhau đó tuỳ thuộc vào các duyên trong tiến trình của nhân quả.
Như vậy, dù hạnh phúc thực sự, chúng vẫn đang tiếp tục thay đổi và
tuỳ thuộc để trở thành. Do đó, để giữ chúng lại, có người với sự lo lắng
sợ hãi của mình, đang bằng trăm ngàn mưu kế, thủ đoạn hay cách gì đó để
giữ gìn hay phát triển hạnh phúc mà họ đang bám víu lệ thuộc. Có người
đang bị đau khổ vì hạnh phúc của mình đang xuống dốc và đang tan mất
theo từng ngay, từng giờ. Tất cả chúng ta đều muốn giữ lại hạnh phúc
theo khái niệm, ý muốn của mình bằng mọi giá. Thế là, từ hạnh phúc,
chúng ta sinh ra đau khổ và sợ hãi.
Đối với nỗi đau khổ và sợ hãi ấy, chúng ta thường xử lý bằng nhiều
cách khác nhau như chạy trốn vào những cảm giác mạnh như uống rựợu, ma
tuý, tự hành hạ bản thân, trả thù đời, hay luyện tập phương pháp thần bí
nào đó để làm tê liệt các cảm giác nhưng sau đó càng đau khổ hơn. Có
khi, ta tìm cách quên lãng sự thật ấy như vùi đầu vào công việc, vào
tình yêu nam nữ, vào các thú vui thoả mãn các giác quan, nhưng sau đó
lại càng nhớ thêm, càng quằn quại thêm, ray rức thêm, không sao quên
được rồi lại sợ mất đi. Có khi, ta tìm mọi cách để chống lại đau khổ và
sợ hãi bằng cách chạy theo những gì ta thích thú, trừ khử những gì ta
ghét bỏ, hay bằng nhiều cách lý giải, nguỵ biện, biện minh hay giải
thích để phủ nhận sự thật, hay cầu xin van vái ở các thần thánh, đền
miếu, các hình thức tôn giáo.Nhưng khi chúng ta nổ lực chống lại đau
khổ và sợ hãi thì sự bất mãn xuất hiện, bất mãn chính mình, bất mãn hòan
cảnh sẽ tạo nên đau khổ khác càng khốc liệt hơn.
Đối với sự thật hiển nhiên và chẳng dễ chịu chút nào này, người Phật tử có thái độ như thế nào?
Cũng như những ngưòi khác, khi sống trong hạnh phúc, nhưng chưa đạt
đến trình độ tu chứng của bậc thánh thứ nhất Dự lưu ( không còn ba phiền
não: thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ) trở lên, người Phật tử vẫn
có sự lo sợ và đau khổ khi hạnh phúc đang chia tay từng ngày từng giờ
với mình, hay đã đội nón ra đi.
Khi đối diện với sự thay đổi hạnh phúc của mình, người Phật tử không
phản ứng với chúng bằng ba cách trên mà nhìn thẳng vào nó, phân tích nó
bằng trí tuệ để thấy rõ bản chất sinh diệt của đau khổ và sợ hãi, nhận
rõ đâu là trọng tâm của chúng, đâu là những ảo tưởng của ta. Lệ thuộc
vào sự ưa thich (hữu ái), ghét bỏ ( phi hữu ái), hay tham muốn (dục ái)
nên chúng ta sợ hãi với những gì mình đang ưa thich mà mất đi ( hoại
khổ), hay đau khổ với những gì ta không thích mà cứ đến với ta (khổ
khổ); bất an, lo lắng với những tham muốn vô bờ bến (hành khổ). Đau khổ
và sợ hãi cũng có chung ba trạng thái thay đổi, tuỳ thuộc, và trở thành
như các pháp khác, nghĩa là chúng có đến thì chúng sẽ ra đi theo thuộc
tính của chúng chứ không hề theo ý muốn của ta ( khổ đế).
Như vậy taị sao ta đau khổ và sợ hãi? Được trang bị giáo lý về quy luật
nhân quả, nghiệp báo, người Phật tử hiểu rằng : chính tâm ta tự xây
dựng một bức tường thành kiến và phê bình để tự bảo vệ mình, ta lại vô
tình nhốt ta vào bức tường đó bằng những ưa thích và ghét bỏ của chính
ta. Hay nói cách khác, đau khổ phát sinh do sự lệ thuộc vào tham ái, bám
víu vào những khái niệm chiếm hữu (Tập đế)
Như vậy, hạnh phúc thực sự trong hiện tại và tương lai là gì?
Khi đã thấy rõ đâu là trọng tâm của đau khổ và sợ hãi, nguyên nhân và
sự diễn tiến vô ngã của chúng, người phật tử không làm bộ phớt lờ, lẫn
tránh hay chống đối hay mà luôn luôn tạo ra nhân duyên tốt cho đời sống
bằng bốn pháp đem đến kết quả hạnh phúc hiện tại và tương lai:
-
Đầy đủ chánh tín_ niệm Phật, Pháp và Tăng bảo: “vững lòng tin tưởng
vào Đức Phật, và chấp nhận thực tại dưới ánh sáng của Tam Bảo, tin chắc
chắn rằng ta có thể vượt qua, không còn lệ thuộc đau khổ và sợ hãi và sẽ
trở thành một Bậc Giác ngộ như Đức Phật (niệm Phật). Học và thực hành
giáo pháp theo đúng pháp ( niệm Pháp). Tin tưởngvà nương nhờ đoàn thể
tăng già thanh tịnh và hoà hợp để cùng đi trên đường hướng đến an lạc,
giải thoát ( niệmTăng).
-
Đầy đủ giới_ niệm giới: Học, chiêm nghiệm, ứng dụng, thực hành năm giới trên cơ sở mười nghiệp thiện vào đời sống hằng ngày.
-
Đầy đủ tuệ : Hoc tập, chiêm nghiệm nhân quả thế gian và xuất thế gian
bằng nguyên lý Bốn thánh đế và đặt mình trên đường tám chi chánh đạo hay
giới định tuệ..
-
Đầy đủ bố thí: làm các phước như bố thí, bố thí rộng rãi với bàn tay
rộng mở, vui thích từ bỏ, vui thích chia sẻ vật bố thí phụng dưỡng cha
mẹ, thương yêu gia đình, hiểu rõ và sống tuỳ thuận theo nhân quả. (Kinh
Tăng chi đã dẫn trên)
Bằng những nghiệp thiện, thiện pháp như thế làm duyên , hạnh
phúc hiện tại vẫn thay đổi nhưng thay đổi thành kết quả chắc chắn tốt
đẹp hơn. Cụ thể, phát tâm bồ đề mong cầu giác ngộ, đặt lòng tin chắc
chắn vào Tam bảo, giữ giới luật, học Phật pháp, thực hành bố thí , người
Phật tử luôn luôn sống trong hạnh phúc, trong bình an giữa sự thay đổi
của hạnh phúc của cuộc đời mà không hề bị chi phối bởi sợ hãi và đau
khổ.
Song song với sự thực hành tám nguyên lý ở trên, người Phật tử
cần phải học và thực hành bốn pháp đưa đến hạnh phúc nơi tự tâm mà
không lệ thuộc vào khái niệm hay điều kiện nào cả. Phật giáo gọi nó là
an lạc trong hiện tại ( hiện pháp lạc trú).Hạnh phúc ấy không tuỳ thuộc
vào các đối tượng của giác quan, chính tự mình cảm nhận ngay trong hiện
tại với hòan cảnh của chính mình do sự tu tập bốn tâm vô lượng (Brahma
vihàra) từ, bi, hỷ,và xả.
Bất kỳ dân tộc nào, xã hội nào, nền văn hoá nào, tôn giáo nào,
thời gian nào, ai tu tập bốn tâm vô lượng này thì đều được sự an vui
hạnh phúc.
Được tu tập bằng bốn tâm vô lượng thì:
Khi xúc chạm việc đời, Tâm không động không sầu,
Tự tại và vô nhiễm, Là phúc lành cao thượng.
Kinh Hạnh phúc ( Thầy Viên Minh dịch)
1.Tâm TỪ (mettà) : tâm lý không sân hận, không thù hận, không oán thù,
không bất mãn với bất kỳ chúng sinh nào. Khi ta thù ghét ai đó và đang
tìm cách thực hiện theo tâm thù ghét, oán hận đó, không biết họ có bị
đau khổ không, nhưng thật sự ta đang quằn quại trong đau khổ bởi tâm thù
hận của mình. Như ta đang cầm một cục sắt nóng, muốn ném ai đó, chẳng
biết họ có bị trúng không, có bị đau khổ không nhưng rõ ràng là ta đang
đau khổ vì tay ta đang nóng cháy. Khi có mặt tâm từ có nghĩa là vắng mặt
tâm sân hận (dosa) không những làm cho ta bình tỉnh, thư thái mà còn
làm cho ta trở nên cao thượng, tốt đẹp. Ở đây, chúng ta cần phân biệt rõ
sự khác nhau giữa tâm từ và tình yêu do luyến ái, tình đồng loại, động
chí, đồng chủng, đồng hương, đồng đạo, đồng nghiệp vv… Tình ái bao gồm
tình dục chiếm hữu, tình yêu có điều kiện, là những tình cảm bị hạn
chế,lệ thuộc bởi bản ngã, không gian và thời gian, là nguồn gốc của biết
bao đau khổ và sợ hãi cho mình và người. Tâm từ không sân hận, là tình
thương không điều kiện, vượt lên trên các tình cảm hẹp hòi ấy, không bị
hạn chế bởi không gian và thời gian, rãi đến tất cả mọi sinh vật ở khắp
muôn phương. Ở đây, chúng ta cần ghi nhận là tu tập tâm từ không có
nghĩa là quên mình. Do đó, muốn tu niệm tâm từ, trước hết chúng ta phải
niệm tâm từ đến chính mình, thương yêu, chấp nhận chính mình trước rồi
mới đến tha nhân.
Hận thù diệt hận thù, đời này không có được,
Tâm từ diệt hận thù, là định luật ngàn thu.
Pháp cú 5.(T Minh Châu)
2. Tâm BI (Carunà) là tâm lý không hung bạo, khinh thường, ghét bỏ, vô
tình, hẹp hòi ích kỷ. Tâm bi luôn độ lượng, thông cảm, đối với những ai
dưới ta, đang tuỳ thuộc ta, không bằng ta trong lĩnh vực nào đó. Tâm bi
giúp ta đặt mình vào hòan cảnh của người khác để giúp đỡ họ.Khi ta có
thái độ khinh thường, tự cao, vô tình, hẹp hòi, ích kỷ với những ai
không bằng ta thì ta đã gây ra biết bao điều tàn bạo, khủng bố cho thế
gian và chính sự hung bạo ấy mà ta tự chuốc lấy phiền muộn, bực dọc cho
mình, vì không có sự thông cảm với người khác, lo sợ vì họ sẽ có đựơc
những gì mà ta đang có. Nguy hại hơn nữa là chính thái độ cao ngạo đó
làm cản bước tiến của ta, tự mình cô lập mình, làm cho ta tụt lùi mà
không biết. Tâm bi là động lực làm cho tâm ta rung động trước sự đau khổ
của kẻ khác, muốn xoa dịu sự đau khổ của người khác, muốn họ được an
vui, hết khổ mà không hề đòi hỏi sự đền đáp gì cả. Tâm Bi có năng lực vĩ
đại, không gì phá hoại được như tình yêu của người mẹ đối với đứa con
một của mình. Đối tượng của tâm bi là những người nghèo khổ, bệnh hoạn
về thể xác hay tinh thần, thiếu thốn vật chất, thiếu tình thương, đang
sợ hãi, ngu si, dốt nát, phóng đãng, hư hèn, thiếu văn hoá, đạo đức.
Bằng tâm bi, ta tìm cách xoa dịu và hàn gắn tất cả các vết thương ấy
đang từng ngày gây đau khổ cho tha nhân, tìm mọi cách làm cho họ được
vượt lên, được thành công, hạnh phúc như mình đang có. Ta cũng nên biết,
tâm bi không bao giờ là những giọt nước mắt suông, những tình cảm uỷ
mị, những ý nghĩ thương hại, âu sầu, buồn bã.
Từ bi gieo cùng khắp, Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình, Không hẹp hòi oan trái,
Không hờn giận oán thù. Khi đi đứng ngồi nằm
Bao giờ còn thức tỉnh, Giữ niệm từ bi này
Thân tâm thường thanh tịnh, Phạm hạnh chính là đây.
Kinh Từ bi (nt)
3.Tâm Hỷ: (muditā) là hoan hỷ, nhưng không phải là cảm giác vui cười,
thích thú suông hay cảm tình riêng với ai đó, mà là tâm lý thật sự chia
sẻ, hoan hỷ, tôn trọng với những thành công, tốt đẹp của người khác.
Thông thường chúng ta có thái độ ganh tị, chê bai, khó chịu với thành
công của người khác với ý nghĩ tại sao họ được như vậy mà ta không được,
rồi phủ nhận tất cả khả năng tốt đẹp, thật sự của người khác. Do sự
ganh tỵ đó làm động lực thúc đẩy chúng ta tranh đua, giành giật một cách
bẩn thỉu, thủ đoạn, bất chấp công lý, đạo đức, hiểm nguy để đạt được
những gì không phải của mình.Tâm lý đó, phát xuất từ tâm tham, không
chịu thua thiệt ai. Nó tạo ra những mặc cảm tự ti và trói chúng ta vào
đó,gây cho chúng ta không biết bao đau khổ
Nó mắng tôi đánh tôi, nó thắng tôi cướp tôi,
Không ôm hiềm hận ấy, hận thù được tự nguôi.
Pháp cú 4. (T Minh Châu)
4.Tâm Xả: (upekkhā) là tâm nhận định chân chính, đúng đắn, khách
quan với đối tượng mà ta đang tiếp xúc, không bị chi phối bởi thành
kiến, ấn tượng, ưa thích hay bất mãn do phi như lý tác ý
(Ayonisomanasikara). Bằng tâm lý cố bám víu vào những gì ưa thích hay
bất mãn, những gì không đúng ý mình, ta trở nên thành kiến, cố chấp, cục
bộ khi giao tiếp và nhận thức đối tượng. Chính những thành kiến, cố
chấp này làm cho ta có biết bao nhận định sai lầm, đánh giá sai lầm,
hiểu biết sai lầm dựa trên cảm tính, khái niệm, gây ra biết bao đau khổ
cho mình và người. Người có tu tập tâm xả luôn luôn bình an với bất kỳ
đối tượng nào vì không bị thành kiến chi phối, đánh lạc hướng nhận
thức.Khi bị khinh chê, vu oan, hiểu lầm, phỉ báng, chỉ trích, người có
tâm xả luôn bình thản không bị đau khổ , phiền não bởi chúng.
Như tảng đá kiên cố, Không gió nào lay động,
Cũng vậy giữa khen chê, Người trí không giao động.
Pháp cú 81. (T Minh Châu)
Tóm lại,Tâm từ không sân giận, thương yêu đến khắp các loài; tâm
bi luôn giúp đỡ tất cả chúng sinh đang đau khổ, sợ hãi; tâm hỷ chia sẻ
sự hoan hỷ thật sự với những ai hơn mình; tâm xả bình đẳng, không bất
mãn, thành kiến đối với tất cả mọi người
Như thế, bằng bốn tâm Từ, bi, hỷ xả, người phật tử đã và đang tiếp
tục sống hạnh phúc an lạc như bậc thánh, xây dựng đời sống hạnh phúc
ngay hiện tại mà không cần nhờ vả vào một quyền uy, hay đi tìm vào hoàn
cảnh đặc biệt nào khác.Hạnh phúc ấy đang luôn có mặt với ta bây giờ và ở
đây mà không cần phải tìm ở đâu hay đợi đến khi nào cả.
Khác với các tôn giáo khác, Phật giáo không giới hạn trong sự tìm
cầu sự an lạc của cõi người hay thiên giới mà mục đích là đạt đến sự
hạnh phúc an lạc của giác ngộ , giải thoát không còn bị lệ thuộc trong
ba cõi. Sự an lạc đó là kết quả của quá trình tu tập do thấy Pháp, Thấy
pháp là duyên đưa đến giác ngộ, giải thóat hòan toàn.
Theo Phật giáo, sự giải thoát, giác ngộ tuy được tu tập bằng nhiều pháp
môn khác nhau nhưng vẫn tuân theo nguyên lý giới, định và tuệ, khai
triển thành tám chi chánh đạo với ba giai đoạn: pháp học, pháp hành và
pháp thành.
Giới (sīla) có nghĩa là hộ trì, bảo vệ bao gồm chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng. Giới là nền móng của sự tu tập. Giới không chỉ là những
điều nên làm, không nên làm như luật pháp hay đạo đức, luân lý xã hội,
mà là các luật nghi (samvara) bao gồm những điều học (sikkhà pada _học
xứ) bằng tự nguyện để vững vàng đi trên thánh đạo. Luật pháp thế gian
thì được xây dựng bằng những quy định mang tính cách xã hội, bị giới hạn
bởi không gian và thời gian, nếu vi phạm thì hậu quả sẽ là chiếc còng
hay nhà tù do chính quyền đại diện cho nhân dân ở đất nước đó đặt ra.
Đạo đức thì chỉ dành riêng cho loài người.Luân lý thì tuỳ theo dân tộc,
địa phương. Giới luật của Phật giáo là hệ thống giáo dục, đạo đức có
tính cách nhân văn, tuy được xây dựng trên nền tảng xã hội bằng chất
liệu bình đẳng, từ bi, trí tuệ , nhưng mục đích hướng theo thánh đạo bao
gồm định và tuệ, là nền tảng cho sự tu tập đưa đến giác ngộ giải thóat.
Giới tại gia có công năng bảo vệ thân và khẩu nghiệp người cư sĩ không
hành động theo nghiệp ác, không bị đoạ vào cảnh giới địa ngục, ngã quỷ,
súc sinh.Giới tại gia đưa đến quả thánh Dự lưu, Nhất lai, hay có thể là
Bất hoàn; đồng thời giới tại gia giúp đỡ người cư sĩ hành đạo bồ tát với
tâm bồ đề cầu giác ngộ. Giới cụ túc của tỳ kheo có công năng hộ trì cả
thân miệng ý người xuất gia luôn luôn sống ít muốn biết đủ ( thiểu dục,
tri túc),chánh niệm tỉnh giác đứng vững trong thánh đạo một cách an lạc,
tiến thẳng đến mục đích giải thoát, giác ngộ như các bậc A la hán, bậc
Chánh đẳng giác.
Định (samādhi) bao gồm chánh tinh tấn, chánh định và chánh niệm. Ánh
nắng mặt trời chiếu trên mặt chiếc đĩa thì nhiệt lượng chỉ làm khô mặt
đĩa ấy. Nếu dĩa ấy là một kính lúp, thì chỉ với diện tích ấy, năng
lượng mặt trời cũng đủ để đốt cháy vật bên dưới.. Căn phòng bị mở hết
sáu cửa thì gió sẽ lùa vào và ngọn lửa sẽ không đứng yên. Nếu đóng hết
các cửa thì ngọn lửa sẽ đứng yên sẽ cho ta nhiệt lượng rất cao và thấy
rõ mọi vật.
Trong đời sống bình thường, tâm ta bị ngoại cảnh chi phối, với sự hỗ
trợ của các tâm sở phiền não như tham sân si, làm phân tán các năng
lượng của nó, làm cho tâm không ghi nhận được sự thật về đối tượng. Do
đó, chúng ta luôn nhận thức , hành động, nói năng, suy nghĩ theo cảm
tính, quán tính của mình.Đây là nguyên nhân dẫn chúng ta đến đau khổ.
Như mái nhà vụng lợp, mưa gió thấm dột vào,
Cũng vậy tâm vụng tu, tham dục sẽ xâm nhập.
Kinh pháp cú 13
Thiền định như tấm kính lúp , như đóng hết các cửa các giác quan lại,
làm tập trung năng lượng của tâm. Khi được tập trung cao độ thì năng lực
của tâm có thể xử lý tất cả đối tượng của nó.(….Chế tâm nhất xứ, vô sự
bất biện_ kinh Di Giáo). Mục đích của thiền định là kiểm soát tâm, trao
dồi tâm, tập trung năng lượng của tâm để dựa vào trí mà phát sinh
tuệ.Đối tượng của thiền định là pháp tục đế (Pannatti), là khái niệm dựa
trên 40 đề mục để tập trung tâm lại trên một đối tượng tự đó phát sinh
hỷ lạc, khống chế đau khổ và sợ hãi.
Tuệ (panna) bao gồm chánh kiến và chánh tư duy là trí tuệ phân tích
đối tượng, thấy rõ thực tại của đối tượng do sự tu tập thiền quán
(Vipassanà)theo tiến trình văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ.Thiền định tập trung
tâm lại để nắm bắt đối tượng, nhưng để biết rõ đối tượng đó là gì thì
phải nhờ vào công năng của thiền quán. Trong năm uẩn, tưởng uẩn
(sanna_tri nhận) có vai trò nhận thức đối tượng.Nhưng hạn chế của tưởng
là chỉ biết trên bề mặt của đối tượng, bằng khái niệm để hình dung và
đặt tên cho đối tượng chứ không thấy được sự thật về đối tượng. Khi chưa
thấy được thực tại ( pháp), ta nhận thức đối tượng bằng tưởng, bằng
khái niệm. Như vậy, ta chỉ thấy bề mặt không hề thay đổi của đối tượng,
rồi từ đó sinh ra đau khổ với đối tượng mà ta không thích, lo sợ đối
tượng ta ưa thích mất đi, trong khi đó đối tượng lại đang luôn thay
đổi.Chúng thay đổi và tồn tại theo thuộc tính của chúng chứ không hề
theo ý muốn của chúng ta.
“Ngoài sự sinh diệt ra, thế gian này như hoa đốm giữa hư không, không
thật có” (Thế gian ly sinh diệt, du như hư không hoa_ kinh Lăng già tâm
ấn) Hay nói cách khác, thế gian này chỉ là sự sinh và diệt của năm uẩn,
lục căn và lục trần. Khi chưa thấy được pháp, mà chỉ thấy hình bóng pháp
theo khái niệm thì ta vẫn bị tham sân si chi phối, đưa đến đau khổ, sợ
hãi.
Khi một người thân như cha mẹ ta qua đời, ta sẽ đau khổ, khóc lóc
vv..trong khi đó, ta vẫn học: “Thấy năm uẩn là không vượt tất cả khổ
ách.” (Bát nhã tâm kinh) Vậy tại sao, thấy người chết là thấy vô thường,
ta đã không vượt khổ ách mà lại càng đau khổ thêm??”
Vấn đề ở đây là, chúng ta chỉ thấy người thân như cha , mẹ, người thân
ta chết chứ có thấy năm uẩn sinh diệt đâu??!! Khi đối tượng của ta là
người thân, thì tham ái phát sinh rồi ta bị tham ái ấy trói lại làm cho
ta đau khổ. Như em bé đưa tay vào lọ kẹo, nắm chặt nắm kẹo thì sẽ bị giữ
tay trong lọ kẹo. Ai giữ tay em trong lọ kẹo??chính là lòng tham ái đã
giữ tay em lại. Cha, mẹ, người thân chỉ là khái niệm, khái niệm đâu có
thật mà chết với sống. Ta đau khổ vì ta không thấy thật tại, thấy pháp
mà chỉ tưởng về người thân, về sự chết bằng khái niệm, lệ thuộc vào tham
ái …vì vậy ta đau khổ. Trên thực tại, người thân của ta đang sống, cũng
chính là đang chết. Vậy tại sao đối với họ, ta không khóc, không đau
khổ mà khi họ chết ta lại đau khổ. Bởi vì, chúng ta luôn sống và nhận
thức bàng khái niệm, bị khái niệm chi phối nên ta khổ. Nếu ta thấy rõ
được thực tại của người thân là 5 uẩn đang sinh diệt thì ta có còn lệ
thuộc vào sự chết để bị khổ nữa không??!!. Khi chúng ta thấy rõ thật tại
của cha hay mẹ chỉ là đương thể của năm uẩn, mà năm uẩn thì sinh diệt
từng ngày, từng giờ…, sống mỗi phút, mỗi ngày là chết đi mỗi ngày thì sự
tham ái sẽ không phát sinh và đau khổ sợ hãi không còn lý do để tồn
tại.
Làm sao để thấy được thực tại, thấy được năm uẩn?? Đây chính là thiền
quán với đối tượng là chân đế_ paramattha, Bằng thiền quán, ta sẽ thấy
rõ được pháp, pháp chính là thực tại đang là vơi ba trạng thái của nó là
luôn đang thay đổi, tuỳ thuộc nhau và không hoàn hảo (Vô thuờng, vô
ngã, khổ). Ở đây, chúng ta cần ghi nhớ, trí tuệ thấy pháp là kết quả tu
tập thiền quán theo tiến trình văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ (1) chứ không thể
thành tựu chỉ do kiến thức, học vấn.
Đức Phật dạy: “Ai thấy được lý duyên khởi người ấy thấy được
pháp, ai thấy được pháp thì thấy lý duyên khởi.” (Trung bộ kinh_
kinh28_trang 191_T Minh Châu dịch)
Bằng sự tu tập thiền quán, người Phật tử thấy được pháp_ thực tại
đang là của đối tượng_ chỉ là hiện tượng đang thay đổi_ tuỳ thuộc mâu
thuẫn để tồn tại_ không hoàn hảo để trở thành_ thì không bị chi phối bởi
ba ảo giác là khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Sống trong đời sống sinh
diệt nhưng bằng chánh niệm, tỉnh giác thì không bị chi phối bởi đau khổ
hay sợ hãi. Thấy pháp tức là thấy Phật, là giác ngộ như chính Đức Phật
đã tuyên bố:“ Nếu thấy pháp là thấy Ta (Phật), nếu thấy Ta là thấy
pháp.Tại sao? Vì thấy pháp nên thấy Ta, vì thấy Ta nên thấy pháp”
(Nguyên thuỷ PGTTL trích Vinaya III, trang 120_T Quảng độ dịch)
“ Những gì thuộc về hiện tượng (tướng) đều hư vọng, nếu thấy các tướng
chẳng phải là tướng thì thấùùy được Như lai” Phàm sở hữu tướng giai thị
hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như lai_kinh Kim
cương)
Như vậy, hạnh phúc, an lạc của sự giải thoát không cần phải tìm ở đâu
xa hay ở thế giới nào cả, hay đợi đến bao giờ cả mà nó đang có chính ở
đây, ngay bây giờ nếu chúng ta sống với thế giới quanh ta bằng trí tuệ
chứ không lệ thuộc khái niệm về đối tượng. Pháp chính là thực tại hiện
tiền (sanditthika), không bị hạn chế bởi thời gian (akàlika) , tự chứng
(ehipassika), hướng thượng (Opanàyika). Khi bằng tuệ tri thấy pháp_ thực
tại đang là_ thì hạnh phúc an lạc đang có mặt với chúng ta.
Sống với thế giới quanh ta, đã bao lần nhìn sợi dây mà ta thấy là con
rắn. Từ đó, đau khổ, sợ hãi phát sinh. Ta tìm cách chạy trốn, hay quên
lãng hoặc xua đuổi chống lại con rắn ở trước ta để thoát khỏi nỗi sợ hãi
đau khổ trong ta. Những phương cách để chống lại con rắn càng làm cho
chúng ta mệt mỏi, đau khổ và sợ hãi thêm mà không hề có kết quả, vì…nó
chỉ là sợi dây.Trong hoàn cảnh đó, bằng ánh sáng của giáo pháp, người
phật tử đứng lại, đối diện trực tiếp với thực tại ( giới); bình tỉnh tập
trung nhìn thẳng vào nó ( định); rồi bằng trí tuệ do thiền quán
vipassanà ( tuệ) , thấy rõ _thực tại nó đang là_ sợi dây thì sự đau khổ
sợ hãi con rắn không còn tồn tại. Điều này đã từng được Ngài Huệ Năng
nói lên: “Xưa nay không một vật, Thì bụi bám vào đâu” (Trí Hải dịch)
(Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai_ Đàn kinh)
Hạnh phúc an lạc tuyệt đối do giác ngộ thật tại_pháp_ đã được Đức Phật tuyên bố:
“Ôi người làm nhà kia, nay ta đã thấy ngươi
Ngươi không làm nhà nữa, đòn tay ngươi bị gãy,
Kèo cột ngươi bị tan,tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong”.
Pháp cú 154_(TMC)
Nha-Trang, Long sơn, mùa An Cư 2548
Chú thích:
1. Văn tuệ (hay Huệ)_ 聞 慧 _Hán. ( suta-maya-panna): Knowledge based on learning: trí tuệ phát sinh dựa trên học hành, cái đã nghe.Có
nghĩa là sự hiểu biết phát sinh theo quá trình học , thực hành giáo
pháp. ). (vì thời Phật không dùng sách, chỉ dạy trực tiếp bằng lời nói,
và người học phải học bằng lắng nghe.Nghe trong hòan cảnh bây giờ chính
là học.)
( SUTA (pp. của sunāti) đã nghe. nt. thánh điển, sự học hỏi, cái chi đã được nghe. Maya _ pali_: làm, hòan thành, tùy theo nơi….( Buu chon)
Panna, Nana_(Pali) tuệ hay huệ : understanding, knowledge, wisdom, insight: sự hiểu biết đúng với Pháp.
Ở đây, văn tuệ, là danh từ Hán Việt , không phải danh từ thuần
Việt, nên tuệ là từ trung tâm , văn là từ bổ nghĩa. Tư tuệ hay tu tuệ
cũng vậy.
2. Tư tuệ 思 慧 ( CINTA-MAYA-PANNA-Pali _ : Knowledge based on Thinking:sự hiểu biết, trí tuệ phát sinh do lắng nghe đúng, và tư duy đúng GIÁO PHÁP do Đức Phật dạy
Cinta_pali_: tư duy, cân nhắc
3. Tu tuệ 修 慧 ( Bhavana-maya-panna) : Knowledge based on mental development; trí tuệ phát sinh dựa trên sự phát triển của tâm trí do thực hành giáo pháp.
(BHĀVANĀ f. sự tiến triển, sự phát triển của tinh thần, do học hành thiền.
Ba tuệ này chỉ được dùng đối với giáo pháp, không dùng cho kiến thức thế gian.
( sự giải thich này căn cứ Kinh Trường bộ số 33_ chúng ta có thể xem trực tiếp ở bản dịch Việt ngữ)
Tuy nhiên, Câu xá luận cho một định nghĩa cụ thể hơn:
_ Văn tuệ : tuệ phát sinh do học và hiểu đúng giáo pháp
_ Tư tuệ : tuệ phát sinh do thực hành thiền định.
_ Tu tuệ: tuệ phát sinh do thực hành thiền quán. ( Câu xá_phẩm Trí)
Nguồn: Quangduc