Theo kinh
nghiệm riêng, rõ ràng là ai cũng có thể thay đổi nếu chịu cố gắng. Dĩ nhiên sự
chuyển hóa không xảy ra tức thời, nó cần nhiều thời gian. Để có thể thay đổi
và đối phó với các cảm xúc, điều quan trọng nhất là ta phải biết phân tích coi
những cảm nghĩ nào có hữu ích, có tính cách xây dựng và đem lợi lạc tới cho
ta. Tôi muốn nói tới những ý nghĩ mang lại sự thoải mái và bình an, những thứ
giúp cho tâm trí ta được an bình, trái ngược với những cảm nghĩ làm cho ta khó
chịu, sợ hãi hay thất vọng. Sự phân tích này cũng tương tự như khi ta phân
loại sự vật bên ngoài, như các loại cây cối chẳng hạn. Có những loại cây, hoa
hay trái tốt nên chúng ta ăn và trồng chúng. Những loài cây độc và có hại, ta
cần học để nhận diện và đôi khi phải triệt hạ chúng.
Thế giới
nội tâm cũng giống vậy. Nếu chỉ nói về thân và tâm thì quá sức giản dị. Trong
cơ thể, trong thân ta có hàng tỷ thành tố khác nhau. Tâm cũng vậy, có biết bao
loại tư tưởng, tương ứng với vô số những trạng thái tâm của mình. Chúng ta cần
nhìn sâu vào tâm thức mình để phân biệt được những trạng thái tâm khác nhau,
thứ nào có hại, thứ nào có ích lợi cho ta. Khi nhận diện được giá trị của các
tâm thiện lành, bạn có thể nuôi dưỡng chúng và làm cho chúng tăng thêm lên.
Bụt dạy các
nguyên tắc căn bản của giáo pháp, là Tứ Diệu Đế. Diệu đế thứ ba là sự ngừng
bặt. Theo ngài Long Thọ (Nagarjuna), ngừng bặt đây là nói về trạng thái tâm
diệt bỏ được tất cả các cảm xúc tiêu cực, do sự cố gắng tu tập của chúng ta.
Ngài Long Thọ định nghĩa sự ngừng bặt đích thực là trạng thái của tâm thức
hoàn toàn tự do, không còn bị các vọng tâm phiền não ảnh hưởng chi nữa. Sự
ngừng bặt (diệt khổ) thật sự đó chính là Phật Pháp tinh nguyên, mà mọi người
Phật tử đều mong đạt tới. Bụt là chỗ nương tựa cho mọi người vì ngài đã đạt
tới trạng thái đó. Vậy nên người ta sùng kính Bụt, hoặc nương tựa vào
Bụt,không phải vì ngài sanh ra là một nhân vật đặc biệt, mà chính vì ngài đã
đạt tới trạng thái diệt khổ thật sự. Người ta cũng nương tựa vào Tăng đoàn vì
đó cũng là một cộng đồng gồm nhiều cá nhân đã hay đang đi trên con đường diệt
khổ.
Chúng tôi
thấy rằng Diệt khổ là một trạng thái tâm thức tự do, không bị vướng bận vào
những cảm xúc và tư tưởng tiêu cực, nhờ áp dụng những lực đối kháng lại chúng.
Các thành tố đưa tới trạng thái Diệt khổ cũng là những vận hành của tâm. Sự
thanh lọc tâm thức cũng xảy ra trong chuỗi liên tục của các thức. Vậy nên
trong đạo Phật. hiểu được bản chất của tâm là điều quan trọng nhất. Nói như
thế, tôi không có ý cho rằng mọi sự đều chỉ là một hình ảnh hay phóng chiếu
của tâm, ngoài ra không có gì khác. Nhưng sự hiểu biết về tâm là điều rất quan
trọng trong Phật giáo nên người ta thường mô tả Phật giáo như là một khoa học
về tâm.
Đại cương
trong Phật giáo, một cảm nghĩ bất thiện được định nghĩa là một trạng thái tâm
gây phiền não cho trí óc con người. Những cảm nghĩ tiêu cực đó gây ra khổ não,
phiền trược trong chúng ta. Cảm xúc bình thường không nhất thiết đều có tính
cách tiêu cực. Trong một hội nghị khoa học với các tâm lý gia và khoa học gia
chuyên về thần kinh, mọi người kết luận rằng Bụt là người có cảm xúc - theo
định nghiã của danh từ này trong nhiều bộ môn khoa học. Vậy nên Từ Bi cũng là
một thứ xúc cảm.
Dĩ nhiên
các cảm thọ có thể tích cực hay tiêu cực. Nhưng khi nói về cái giận vv...
chúng ta nói tới những cảm xúc tiêu cực hay bất thiện. Đó là thứ cảm thọ gây
ra một thứ phiền não, đau khổ và trong đường dài, nó dẫn ta tới những hành
động làm hại người khác, và từ đó, mang đau khổ cho ta thêm nữa. Cảm thọ tiêu
cực có nghĩa như vậy.
Có hai loại
tâm hờn giận. Một loại có thể biến thành ra một cảm thọ tích cực. Tỷ dụ một
người có lòng từ bi và quan tâm tới người khác đang hành xử bất cần để ý tới
ai. Trường hợp này, người tử tế kia có thể biến cái giận của mình thành ra
hành động ngăn cản người khác làm sai. Pháp tu Mật tông giúp chúng ta các
phương pháp thiền quán để chuyển đổi cái tâm hờn giận thành ra năng lượng hành
động tích cực. Tuy nhiên, thường sự hờn giận hay đưa chúng ta tới thù hận, một
cảm thọ bất thiện. Thù hận tạo ra những ý tưởng xấu xa.