Kinh
Duy Ma Cật có một chương giới thiệu
quốc độ của Đức Phật Hương
Tích. Quốc độ đó có tên là Chúng Hương,
nơi đó không có hàng Thanh Văn, Duyên Giác, mà chỉ có
chúng Đại Bồ Tát ngồi thanh tịnh dưới
những cội cây hương, nghe đức Hương
Tích Như Lai giảng pháp bằng hương thơm chứ
không bằng ngôn tự. Mỗi vị Bồ Tát, tự
cảm nhận sự vi diệu của làn hương mà
chứng Tam Muội Nhất Thiết Đức Tạng.
Ngoài đức Hương
Tích Như Lai ra, tất cả chúng Đại Bồ Tát
ở quốc độ ngát thơm này chưa từng
biết đến những cõi nước ô nhiễm
khổ đau, chẳng hạn như cõi Ta Bà mà Đức
Thích Ca Mâu Ni đang có mặt để giáo hóa chúng sinh. Chỉ
đến khi một vị Bồ Tát hóa hiện từ cõi
Ta Bà, vượt qua bốn mươi hai hằng hà sa cõi
Phật, đến quốc độ Chúng Hương
với nhiệm vụ xin thỉnh cơm dư từ cõi
nước này, mang về pháp hội Yêm La, thành Tỳ-Da-Ly
để đại chúng đang nghe pháp tại đó
được thọ dụng, chúng Đại Bồ Tát
cõi nước Chúng Hương xin tháp tùng theo để
đảnh lễ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì
những Chư Bồ Tát đó mới biết rằng ngoài
cõi nước tuyệt đối thanh tịnh, thơm tho
như Chúng Hương, còn có những cõi nước tràn
ngập khổ đau và uế nhiễm.
Các vị Bồ Tát đó
đã ngạc nhiên khi biết đức Thích Ca Mâu Ni không
giảng pháp bằng hương thơm mà bằng ngôn
tự. Không những thế, ngôn tự Ngài dùng là những
lời nghiêm nghị về bao sự thật phũ phàng,
cốt nhắc nhở chúng sinh cẩn trọng tránh né:
“Đây là địa ngục. Đây là
súc sinh. Đây là ngã quỷ. Đây là nơi tái sinh cho kẻ
ngu muội. Đây là tà hành của thân; đây là quả báo
cho tà hành của thân. Đây là tà hành của miệng; đây
là quả báo cho tà hành của miệng. Đây là tà hành
của ý; đây là quả báo cho tà hành của ý. Đây là sát
sinh; đây là quả báo của sát sinh. Đây là tham lam;
đây là quả báo của sự tham lam. Đây là thù
hận; đây là quả báo của sự thù hận. Đây
là trì giới, đây là phạm giới. Đây là hữu
lậu, đây là vô lậu. Đây là tà đạo, đây là
chánh đạo. Đây là thế gian, đây là Niết Bàn
…v…v…Vì tâm tính người khó chuyển nên phải bằng
nhiều phương cách giáo hóa để điều
phục họ” (*)
Nghe như thế, các vị
Bồ Tát từ cõi nước Chúng Hương đều
sửng sốt trước Tâm Đại Bi của
đức Thích Ca Mâu Ni vì Ngài tự nguyện ở lại
cõi Ta Bà ngũ trược này để giáo hóa chúng sinh vô
minh nơi đây. Bỗng nhiên, theo lòng ngưỡng
phục đức Thích Ca Mâu Ni, bao uế nhiễm khi
vừa nhìn thấy cõi Ta Bà chợt biến thành hoa sen. Chư
Bồ Tát cõi Chúng Hương nhận ra ngay, lời
Trưởng giả Duy Ma Cật là hoàn toàn đúng khi nói
về Mười Pháp Thiện ở cõi Ta Bà mà không cõi
Tịnh Độ nào khác có. Mười Pháp Thiện đó
là:
“1- Lấy huệ thí đối trị
bần cùng.
2- Lấy trì giới đối
trị phạm giới.
3- Lấy nhẫn nhục
đối trị sân nhuế.
4- Lấy tinh tấn
đối trị giải đãi.
5- Lấy thiền
định khắc phục loạn ý.
6- Lấy trí huệ dẹp
tan vô minh.
7- Nói pháp trừ nạn
để vượt qua tám nạn.
8- Dạy pháp Đại
Thừa cho người còn chấp pháp Tiểu Thừa.
9- Lấy các thiện căn
giúp người vô đức.
10-Thường dùng bốn
nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh”.(*)
Trước chặng
đường giáo hóa cực kỳ gian nan đó, chư
Bồ Tát cõi Chúng Hương không thể không hỏi
Trưởng giả Duy Ma Cật là Chư Bồ Tát trong cõi
Ta Bà này phải thành tựu bao nhiêu pháp để
đường tu hành của quý Ngài không bị
chướng ngại?
Trưởng giả Duy Ma
Cật giãi bầy rằng, quý Ngài phải thành tựu tám
pháp. Đó là:
“1- Làm lợi ích chúng sinh không
cầu báo đáp.
2- Chịu thay chúng sinh
hết thảy khổ não, và hồi hướng công
đức đã làm cho chúng sinh.
3- Tâm bình đẳng với
chúng sinh, khiêm hạ, vô ngại.
4- Tôn kính Chư Bồ Tát
như đối với Chư
Phật.
5- Khi nghe kinh chưa từng
nghe cũng không khởi nghi hoặc.
6- Không đối nghịch
với pháp của hàng Thanh Văn.
7- Không ganh tỵ vì
người được cúng dường, không tự cao
lợi đắc của mình, trái lại, ở đó
tự chế ngự tâm mình.
8- Thường tự xét
lỗi mình, không tranh tụng sở đoản của
người, nhất tâm cầu thành tựu mọi công
đức. Đó chính là Tâm Pháp” (*)
Không biết rằng, sau khi
viếng cõi nước Ta Bà, đảnh lễ Phật
Thích Ca Mâu Ni, Chư Bồ Tát có còn an lạc khi trở
về cõi nước Chúng Hương, ngồi dưới
cội cây thơm thanh tịnh và nghe pháp bằng
hương thơm trong tịch tĩnh hay không?
Tôi trộm nghĩ, với
tấm lòng từ bi, với trí tuệ của những
bậc đại trí, Chư Bồ Tát cõi nước
tuyệt hảo đó sẽ không còn an nhiên tận hưởng
hương vị diệu hỷ nữa sau khi quý ngài đã
biết rằng, ngoài kia, còn những quốc độ mà
chúng sinh nơi đó đang chìm đắm trong khổ
đau, cần nhiều vị Phật như đức
Phật Thích Ca Mâu Ni để giáo hóa thêm đông đảo
hàng Bồ Tát, thực hiện được Mười
Pháp Thiện và Tám Pháp Nguyện mới cứu độ
được phần nào chúng sinh trong mười phương
ba cõi!
Tôi lại trộm nghĩ,
thế nào cũng có rất nhiều Bồ Tát cõi Chúng
Hương, quỳ gối đê đầu trước
đức Hương Tích Như Lai để xin tạm
rời cõi Chúng Hương mà về cõi Ta Bà chập chùng
uế trược, hầu hiệp lực cùng chư
Bồ Tát nơi đây, cùng đi vào khổ não chúng sinh
mới mong cứu chúng sinh ra khỏi khổ não. Chỉ khi
nào cùng đói ta mới thực sự hiểu cái khổ
của đói mà cứu đói, cùng bệnh ta mới
thực sự hiểu cái đau của bệnh mà cứu
bệnh. Nói cách khác, Bồ Tát cõi Ta Bà phải đi vào
Tử để cứu Sinh, đi vào Tận để
mở ra Vô Tận, đi vào Địa Ngục để
dẫn lối Niết Bàn.
Muốn thế, Bồ Tát cõi Ta Bà
phải tùy duyên hóa hiện.
Trộm nghĩ tới
đây, tôi sửng sốt, bàng hoàng!
Có thể, tôi đã được
thấy nhiều Bồ Tát mà chưa kịp nhận
biết!
Chư Bồ Tát đó không
chỉ do đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa mà có thể
còn là hóa thân của những Bồ Tát đến từ quốc
độ Chúng Hương, cách xa bốn mươi hai hằng
hà sa cõi Phật.
Thưa quý đạo
hữu,
Quý đạo hữu thử
nhiếp tâm nhìn kỹ xem.
Kìa,
Ai khoan thai ngồi xuống,
tự châm lửa, thay tiếng nói cho muôn người
bị áp bức mà không thể nói?
Ai thanh thản đứng
trước vành móng ngựa bạo quyền và im lặng
mỉm cười từ ái?
Ai an nhiên nhận bản án Tử
để trở thành Bất Tử vì quyết làm những
điều đáng làm?
Ai thiền định
nhận đòn thù, xả báo thân mà lòng không thù hận?
Ai lặng lẽ giữ
vững chánh pháp mà tâm không lay động vì hăm dọa,
vì lợi danh?
Ai thể hiện hạnh vô
úy từ chính bản thân mình để làm nơi
nương tựa cho môn đồ tứ chúng giữa
thời mạt pháp?
Nhiều lắm! nhiều
lắm! kể sao cho hết, phải không, quý đạo
hữu?
Trước gương sáng
của Chư Bồ Tát đã xả báo thân hay còn hiện
tiền, hàng Phật tử sơ cơ như tôi mà còn
cảm thấy rất rõ, là tôi vô cùng hạnh phúc
được có mặt nơi cõi Ta Bà uế trược,
vì nơi đây tôi được thấy tận mắt
những Bồ Tát hóa thân, đã và đang mang Cõi Tâm
Hương xông ướp uế độ này, làm nở
những đóa sen tưởng không bao giờ
được đón ánh mặt trời.
Tôi đã thấy, nào cần
vượt bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật
mới nếm được hương vị chén cơm
Vi Diệu Pháp!
Cho nên học kinh, chúng ta
thường được nhắc nhở là phải
“giữ ý, buông lời” là vậy.