ĐI TÌM HÒA BÌNH NỘI TẠI VÀ HIỆN THỰC
His Holiness the Fourteenth Dalai Lama
Nottingham, England, 24 May 2008
Anh ngữ: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
*
The Dalai Lama spreads the Feel Good Factor to
Nottingham’s Economy
a
MỤC LỤC
1-
Tầm quan trọng của việc khảo sát thực tại của một
hoàn cảnh
2-
Tầm quan trọng của một tâm tư cởi mở về những thứ
khác
3-
Hiện hữu không quan tâm về sự xuất hiện ngoại tại
4-
Chuyển hóa nội tại
5-
Đạo đức nhân gian
1- TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC KHẢO SÁT THỰC TẠI (1) CỦA
MỘT HOÀN CẢNH
An bình nội tại liên hệ đến sự tĩnh lặng của tâm hồn
hay tinh thần. Những kinh nghiệm thân thể vật lý
không nhất thiết quyết định cho sự hòa bình nội tại
của chúng ta. Nếu chúng ta có bình an nội tại, thế
thì thể trạng vật lý của thân thể không quá quan
trọng.
Bây giờ, chúng ta có phát triển bình an nôi tại qua
nguyện cầu hay không? Không, không thật sự. Qua sự
rèn luyện thân thể? Không. Chỉ qua tiếp thu kiến
thức? Không. Qua việc làm nhẹ cảm giác của chúng
ta? Không. Nhưng khi đối diện với bất cứ tình cảnh
khó khăn nào, nếu, trên căn bản của sự tỉnh thức (2)
toàn triệt về những lợi ích và tổn hại của bất cứ
hành vi khả dĩ nào và hậu quả của nó, chúng ta đối
diện với hoàn cảnh đó, mà tâm tư chúng ta không bị
quấy nhiễu và đấy chính là an bình nội tại thực sự.
Thế thì từ bi (3) và có một sự tiếp cận thực tế là
cực kỳ quan trọng. Khi không dự đoán được những hậu
quả sinh khởi và chúng mang đến những sự đối diện
lớn lao về sợ hãi, điều này là qua sự không thực tế
hiện hữu trong tâm tư chúng ta. Chúng ta không thật
sự nhìn tất cả những hậu quả và vì thế có một sự
thiếu vắng tỉnh giác và hiểu biết. Sự sợ hãi đến từ
sự thiếu vắng khảo sát chính xác, do thế, chúng ta
cần nhìn từ tất cả bốn phương hướng, trên và dưới để
có thể thấy toàn cảnh một bức tranh. Luôn luôn có
một khoảng cách giữa thực tại và sự xuất hiện (4),
do vậy chúng ta phải khảo sát từ mọi phương hướng.
Chỉ nhìn tại điều gì đấy, thì không thể thấy hoặc là
nó tích cực hay tiêu cực. Nhưng, khi chúng ta [khảo
sát nó toàn bộ và] nhận ra sự thật về điều gì đấy,
rổi thì cuối cùng chúng ta mới có thể đánh gia nó là
tích cực hay tiêu cực. Do vậy, chúng ta cần có một
sự đánh giá sáng suốt tình trạng của chúng ta. Nếu
chúng ta bắt đầu khảo sát với tham muốn, “tôi muốn
kết luận như thế này, kết quả như thế kia,” thế thì
sự khảo sát của chúng ta bị thiênkiến. Truyền thống
của đại học Na Lan Đà, Ấn Độ, nói rằng chúng ta cần
luôn luôn hoài nghi và khảo sát một cách khách quan
tất cả mọi lĩnh vực kể cả tôn giáo.
2- TẦM QUAN TRỌNG CỦA MỘT TÂM TƯ CỞI MỞ ĐẾN NHỮNG
THỨ KHÁC
Bây giờ như vì vắng bóng hòa bình của tâm tư và sự
bất mãn, chúng đưa đến sự hiện hữu của một động cơ
cực kỳ vị kỷ. Một cá nhân có quyền vượt thắng khổ
đau và để đạt đến an lạc hạnh phúc. Nhưng nếu chúng
ta chỉ nghĩ về chính chúng ta, tâm thức trở nên rất
tiêu cực. Rồi thì một vấn đề nhỏ xuất hiện khổng lồ
và chúng ta trở nên mất cân bằng. Khi chúng ta nghĩ
về những người khác như một con người thân mến cũng
như chính chúng ta, tâm tư cởi mở và rộng rãi hơn.
Rồi thì, như một kết quả, thậm chí một vấn đề nghiêm
trọng xuất hiện không quá trọng đại lắm. Thế thì,
có một sự khác biệt lớn lao trong cảm xúc tùy thuộc
trên mục tiêu mà chúng ta nhìn thế nào ở sự kiện:
từ quan điểm của chính chúng ta hay từ quan niệm của
mọi người.
Do vậy, có hai yếu tố quan trọng cho hòa bình của
tâm hồn. Thứ nhất là sự tỉnh thức về thực tại. Nếu
chúng ta tiếp cận sự vật một cách thực sự, sẽ không
có dự đoán về những hậu quả. Thứ hai là từ bi, là
điều mở ra cái gọi là “cánh cửa nội tại” của chúng
ta. Sợ hãi và ngờ vực chia cách chúng ta với những
người khác.
3- HIỆN HỮU KHÔNG QUAN TÂM VỀ SỰ XUẤT HIỆN NGOẠI TẠI
[Một điều khác làm chúng ta đánh mất sự an bình của
tâm thức là lo lắng về sự xuất hiện bên ngoài của
chúng ta.] Khi chúng tôi viếng Bắc Kinh lần đầu
tiên, thí dụ thế, chúng tôi không có kinh nghiệm.
Chúng tôi hơi bồn chồn và có một ít băn khoăn.
Nhưng rồi thì chúng tôi thấy rằng một số người, nếu
họ quá lưu tâm về sự xuất hiện của họ, gương mặt họ
trở nên đỏ bừng khi điều gì ấy sai sót xãy ra.
Nhưng nếu họ mở lòng ra và không ngại nếu điều sai
sót gì ấy xãy đến, thế thì sẽ không có vấn đề gì.
Thí dụ, vào năm 1954, khi chúng tôi ở Bắc Kinh, Đại
sứ Ấn Độ đã đến để gặp tôi tại phòng riêng. Chính
quyền Trung Cộng đã chuẩn bị rầm rộ với đầy hoa,
trái, và v.v…, và họ khăng khăng đòi rằng chúng tôi
phải có một người thông dịch tiếng Hoa. Thế là nó
phải đi từ Tạng ngữ sang Hoa ngữ đến Anh ngữ, mặc dù
một số nhân viên chúng tôi biết tiếng Anh. Tại thời
điểm ấy, đống trái cây đổ nhào và thế là những nhân
viên người Hoa, trước đấy rất cổ lổ sĩ và nghiêm
trang, đã phải hạ xuống trên tay cùng chân và bò
trên sàn nhà. Nếu họ không ngại trước về dáng điệu
của họ, sẽ không có vấn đề gì. Nhưng điều ấy làm họ
rất lúng túng.
Một lần nọ ở thủ đô Mễ Tây Cơ, tại một cuộc gặp gở
liên tôn giáo, có một tu sĩ Nhật Bản. Ông có một
tràng hạt trên tay và dây xâu chuổi bổng nhiên đứt
tung. Ông tiếp tục giữ vụng về ngón tay của ông ta
qua tràng hạt mặc dù những hạt chuổi vung vãi khắp
trên sàn nhà. Ông quá bối rối để nhặt chúng lên.
Ông không thoãi mái do bởi bản chất quá lưu tâm về
phong thái của mình.
Thế nào đi nữa, từ bi, vị tha, chân thành, trung
thực – những điều này rất quan trọng để mang đến sự
tĩnh lặng nội tại, không quan tâm đến điệu bộ bên
ngoài của chúng ta. Chúng tôi không nói rằng chúng
tôi là điều gì đấy đặc biệt, nhưng từ kinh nghiệm
của chính mình chúng tôi không có cảm giác lo lắng
về cung cách của chúng tôi như thế nào trước hàng
nghìn người. Chúng tôi nói đến hàng nghìn người tại
những buổi diễn thuyết chẳng hạn như buổi này và đối
với chúng tôi nó giống như nói chuyện đến chỉ vài
người. Nếu một vài sai sót xãy ra, chúng tôi sẽ
quên nó, không có vấn đề gì. Nếu những người khác
cũng phạm phải sai sót, chúng tôi chỉ cười.
4- CHUYỂN HÓA NỘI TẠI
Bây giờ như vì sự chuyển hóa nội tại, một sự chuyển
hóa nội tại là nói về thể trạng cảm xúc. Có một đặc
trưng của chuyển hóa nội tại mang đến sự suy nghĩ
một cách tự nhiên qua tuổi tác và một thứ khác đem
đến qua những tình huống bên ngoài. Những loại
chuyển hóa này đến một cách tự động. Những thứ khác
đem đến qua nổ lực và điều này là một thứ chính mà
chúng ta muốn mang đến: sự chuyển hóa nội tại theo
sự mong ước của chúng ta. Điều này là ý nghĩa chính.
Bây giờ ở đây, chúng ta không đang nói về kiếp sống
tới của chúng ta, sự cứu rỗi, hay thiên đàng, nhưng
làm thế nào để duy trì đời sống này trong một phương
cách an lạc và tĩnh lặng hơn thay vì những khó khăn
và rắc rối. Vì điều này, những nhân tố chủ yếu mà
chúng ta phải đối diện bao gồm giận dữ, thù hận,
ghen tị, nghi ngờ, cô độc, căng thẳng, và v.v… Tất
cả những điều này liên hệ đến thái độ tinh thần căn
bản của chúng ta. Chúng đến từ sự hiện hữu quá vị
kỷ hay chấp ngã. Đối với chúng ta, khi chúng ta
trãi qua những thứ này, tự ngã là điều quan trọng
tột đỉnh và điều này mang đến ghen tị. Từ sự yêu
mến chính mình, rồi thì, những sự chọc tức phẫn hận
nhẹ nhàng mang đến giận dữ , và giận dữ đưa đến sợ
hãi. Chúng ta không quan tâm đến người khác; chúng
ta chỉ nghĩ về chính mình. Và chúng ta nghĩ rằng
những kẻ khác cũng chỉ lưu tâm đến chính họ mà thôi
và họ chắc chắn là không quan tâm đến chúng ta. Do
bởi thế, chúng ta cảm thấy cô đơn. Chúng ta nghĩ,
“mình không thể nương cậy vào những người khác,” và
thế là chúng ta nghi ngờ đến những người ở trước mặt
chúng ta, những người bên cạnh, và, thậm chí hơn nữa,
những người ở phía sau chúng ta.
Một cách căn bản, khi chúng ta nghĩ về nó, bản chất
tự nhiên của con người là mọi người trân trọng sự
thân thiết, tình thân mật. Nếu chúng ta mở rộng mối
quan hệ thân hữu, hầu hết mọi người sẽ liên hệ một
cách tích cực. Như vì những cảm xúc đó mang đến lo
lắng và v.v…, chúng ta cần một số biện pháp ứng phó
để đối trị lại chúng. Thí dụ, nếu chúng ta quá nóng,
chúng ta giảm nhiệt độ, hay nếu chúng ta muốn xua
tan bóng tối, không có cách nào khác hơn là đem đến
ánh sáng. Đây là một sự thật của tình trạng vật lý.
Thay đổi có thể mang đến qua sự áp dụng một năng
lực đối kháng – điểu ấy đúng với bản chất tự nhiên.
Nhưng điều này là đúng thực trên tình trạng vật lý,
mà cũng đúng trên thể trạng tinh thần. Do vậy,
chúng ta cần phản ứng ngược lại quan điểm hay nhận
thức của chúng ta với một thứ đối kháng [chẳng hạn
như đối lập với vị ngã cùng nghi ngờ là sự quan tâm
đến người khác và sự thân thiết.]
Lấy một thí dụ về một bông hoa vàng. Nếu chúng tôi
nói, “Nó màu trắng,” qua một nguyên nhân nào đấy và
rồi thì chốc lát sau quyết định nó vàng, những điều
này là hai nhận thức mâu thuẩn. Chúng không thể
được duy trì một cách đồng thời. Ngay khi có một
nhận thức của màu vàng, ý thức của màu trắng lập tức
biến mất. Chúng trực tiếp đối lập với nhau. Thế
nên, một phương pháp để đem đến sự thay đổi nội tại
là phát sinh một thể trạng đối lập của tâm thức.
Một nguyên nhân khác của khó khăn có thể chỉ đơn
thuần là vô minh si ám. Năng lực đối kháng cho điều
ấy là học hỏi, phân tích, và khảo sát. Đây là bởi
vì vô minh ám tối căn cứ trên sự không thấy thực tại.
Do vậy, năng lực kháng cự lại [hay làm mất tác dụng]
vô minh là phân tích. Tương tự thế, năng lực đối
lập với tự yêu mến hay vị kỷ (5) là quan tâm đến
người khác và điều này thiết lập sự rèn luyện tâm
thức [hay làm tinh khiết thái độ của chúng ta.]
ĐẠO ĐỨC
Như vì mục tiêu làm thế nào rèn luyện tâm thức chúng
ta [hay tịnh hóa quan niệm của chúng ta] câu hỏi là
điều này có cần phải liên hệ đến tôn giáo hay tâm
linh hay không, và chúng tôi nghĩ một cách căn bản
không có liên can gì với tôn giáo.
Như vì tính chất tâm linh, à, có hai loại: một với
tôn giáo và tín ngưỡng và một không có chúng. Thứ
không có chúng là điều chúng tôi gọi là “đạo đức
nhân gian”. “Nhân gian” không có nghĩa là từ chối
tôn giáo, nhưng đúng hơn là một thái độ bình đẳng
đối với tất cả các tôn giáo và tôn trọng mọi tôn
giáo. Thí dụ, hiến pháp Ấn Độ tôn trọng tất cả các
tôn giáo; nó là một hiến pháp thế nhân. Do thế, mặc
dù cộng đồng Bái Hỏa Giáo (6) rất nhỏ ở Ấn Độ - chỉ
vài trăm nghìn tín đồ so với hơn một tỉ người ở Ấn
Độ - tuy thế, họ có một vị trí bình đẳng trong quân
đội và trên lĩnh vực chính trị.
Khi chúng ta nói về đạo đức nhân gian, điều này cũng
bao gồm đạo đức cho những người không tín ngưỡng.
Chúng ta có thể mở rộng đạo đức của chúng ta và tôn
trọng ngay cả đến loài vật trên căn bản của đạo đức
nhân gian. Và, cũng thế, một bộ phận khác của tâm
linh hay đạo đức nhân gian là chăm sóc đến môi
trường. Thế nên, trường kỳ, chúng ta cần trau dồi
tâm thức chúng ta; chúng ta cần bồi bổ đạo đức nhân
gian. Sáu tỉ con người trên hành tinh này cần phải
làm thế. Những hệ thống tôn giáo có thể hổ trợ để
làm nên sự nuôi dưỡng đạo đức nhân gian ấy phát
triển lớn mạnh hơn – chúng là một phương pháp bổ
xung để hổ trợ điều ấy tăng trưởng. Những hệ thống
tôn giáo chắc chắn không có ý định để làm cho đạo
đức nhân gian sa sút.
Và vì thế, khi chúng ta nói về đạo đức thế nhân,
chúng ta có một thái độ không theo nhóm tôn giáo nào.
Nếu bất cứ một cá thể (7) tôn giáo nào theo bất cứ
một loại tôn giáo nào hành động xa hơn đạo đức nhân
gian, thế thì họ thật sự là một hành giả tôn giáo.
Nếu họ không làm thế, thế thì thậm chí nếu họ đi đến
thánh đường hay một đền thờ Hồi giáo hoặc một đền
thờ Do Thái giáo, chúng tôi nghi ngờ họ có phải
thật sự là một hành giả tôn giáo chân thành (8) hay
không.
--
Phụ giải:
(1)
Reality: một thuật ngữ không thuộc kỷ thuật để diễn
tả những sự tồn tại một cách thật sự.
(2)
Awareness: tỉnh thức - một thuật ngữ gồm thu tất cả
và phổ quát nhất cho sự nhận ra một đối tượng. Nó
được dùng trong ý nghĩa cả sự cảnh giác hiện hữu về
thứ gì đấy và làm cho thứ gì đấy thành một đối tượng
của sự tỉnh giác, nhưng không cần thiết như một
hành hoạt của ý thức về ý chí hay sự hiểu biết về
đối tượng là gì.
(3)
Compassion: từ bi là sự nguyện ước cho ai đấy được
thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân của khổ đau.
(4)
Sự hiện diện trong tâm thức của bất cứ một đối tượng
nội tại hay ngoại tại của nhận thức, mà chúng sinh
khởi trong tâm chúng ta. Cũng gọi là ‘sự xuất hiện
của nhận thức.’
(5)
Self-cherishing: tự yêu mến – thái độ mà một người
quan tâm đến chính mình như một nhân vật quan trọng
nhất và có sự tác động đến cùng chăm sóc chỉ cho
chính cá nhân mình.
(6)
Zoroastria hay Parsee: Đạo thờ lửa
(7)
Person: cá thể - một chúng sinh cá biệt, bao gồm
những chúng sinh từ bất cứ cõi nào của sáu nẽo luân
hồi, cũng như chư vị A la hán và Phật. Đồng nghĩa
với “cái tôi”.
(8)
Sincerity: tính chân thành có hai nhân tố bao gồm
trong nó: [1] vắng bóng đạo đức giả - không giấu
diếm lỗi lầm của chính chúng ta, [2] vắng bóng sự
giả bộ - không giả vờ có những phẩm chất mà chúng
ta không có.
Finding Inner Peace and Fulfillment
Transcribed, translated in parts, and lightly edited
by Alexander Berzin
With clarifications
indicated in violet between square brackets
Tuệ Uyển chuyển ngữ
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/approaching_buddhism/
introduction/finding_inner_peace_fulfillment.html