Bất cứ người nào theo học khoá Thiền Vipassana trong vòng
mười ngày, đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt nầy của khoa tâm lý
học hiện đại . Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản thân là các sự kiện
tâm lý nội tại có thể được quan sát trực tiếp. Mỗi thiền sinh của
Vipassana đều trở thành một bác sĩ tâm lý thực thụ cho chính mình. Và
xuyên qua môn khoa học thuần khiết về quán sát tự thân, anh ta bắt đầu
thoát khỏi đau khổ.
Hiện
nay, thế giới đang có sự rối loạn, không hiểu biết , tranh cãi về bệnh
tâm thần, thiền định, và sự liên hệ giữa hai đề tài nầy. Các chuyên
gia về sức khoẻ thể chất, và tâm thần cũng không hiểu rõ phạm vi nghề
nghiệp của họ. Họ cũng không hiểu cái gì là thiền định. Bởi vậy đối
với một người bình thường họ sẽ rất bối rối.
Cả hai chữ « tâm thần » và « thiền
định » cũng mang những hào quang thần bí. Nói tóm lại, bệnh tâm thần là
một khoa học rất mới mẻ, chưa đến trăm năm, trong khi vô số cách thức
thiền đã bắt nguồn từ thuở xa xưa. Tuy vậy, đôi lúc có lời tuyên bố là
thiền định không có tính cách khoa học. Thật ra, thiền định là một môn
khoa học, một phương pháp được thực tập và hoàn hảo hoá mấy thế kỷ về
trước bởi các khoa học gia về tinh thần và thể chất, bởi các vị Rishis,
Munis, và các vị Phật. Sau rốt, khoa học là gì ? Khoa học là sự quan
sát một cách khách quan về sự phân tích các dữ kiện, và sự ứng dụng.
Khoa học tìm kiếm để biết sự thật. Chúng ta sẽ thấy trong bài xã luận
nầy, dựa cả vào tiêu chuẩn tân thời, thiền Vipassana (Minh Sát) thật là
một môn khoa học .
Người ta thường nghĩ đến bệnh tâm thần
là môn khoa học chuyên giải quyết những tâm thần bất bình thường.
Nhưng sẽ chính xác hơn nếu sử dụng từ « hành vi » thay thế cho hai từ «
tâm thần » trong việc định nghĩa, bởi vì bệnh tâm thần định nghĩa là
« Một môn học về hành vi bất thường. Bây giờ, để định nghĩa sự bình
thường thì thật là một nhiệm vụ khó khăn. Bình thường nói chúng có
nghĩa « trung bình » . Hành vi ám chỉ những hành động thuộc về lời nói
hay vịêc làm, như hành vi nói năng, hành vi xử sự. Trong môn học về
bệnh tâm thần và tâm lý, cách suy nghĩ được nghiên cứu chỉ bằng một kết
luận sau khi những hành động về lời nói, việc làm được thể hiện. Mục
đích của các môn khoa học nầy là để giúp sửa đổi hành vi của một người
trở lại bình thường (thông thường nghĩa là sự trung bình.)
Chúng ta cũng có thể sử dụng một định
nghĩa tân thời cho bệnh tâm thần như : một phương thức áp dụng môn khoa
học về thần kinh cho việc chữa trị bệnh tâm thần của một nhóm bệnh nhân
tâm thần. Thật ra ngay từ ban đầu, phạm vi của bậnh tâm thần đã không
được định nghĩa đúng đắn. Kết quả các bác sĩ chuyên môn về tâm thần
thường chỉ chữa cho những bệnh tâm thần thứ yếu. Trong những năm 60 và
70, các bác sĩ về tâm thần ở phương Tây đều thực hành phân tâm lý học.
Những bệnh nhân của họ thường không có những triệu chứng, vấn đề nghiêm
trọng; rất ít bệnh nhân bị loạn trí. Trong khoảng thời gian nầy, trong
tâm thần học có ấn tượng là bệnh tâm thần có thể chữa trị tất cả những
vấn đề khó khăn của con người. Nhưng thực tế thì tâm thần học không
đóng góp được gì quan trọng, trong sự hài hoà của xã hội nói chung,
ngoại trừ giúp đỡ được cho một số ít bệnh nhân.
Các bác sĩ tâm thần học có lý trí đã
dần dần hiểu được biên giới của bệnh tâm thần không bao quát song song
cùng với hoạt động tinh thần của mọi con người. Sự hiểu biết nầy là một
ý nghĩa to tác, bởi vì nó giúp cho bác sĩ tâm thần học và một người
bình thường định nghĩa phạm vi của bệnh tâm thần. Sự thiếu hiểu biết
về điều nầy của một người bình thường tạo nên nhiều vấn đề khó khăn
khác nhau. Thí dụ, đôi lúc bác sĩ tâm thần được mời xem bệnh, trong
khi bệnh ấy lại không thụôc về tâm thần, bắt nguồn từ sự tin tưởng, đòi
hỏi vô lý, rằng bác sĩ tâm thần học phải biết hết mọi vấn đề liên quan
đến thần trí. Ngược lại với quan niệm hiểu biết hết của bác sĩ tâm
thần học, mặt khác của đồng tiền là sự thiếu hiểu biết toàn bộ về môn
đặc biệt nầy, kể luôn cả vài thành phần chuyên gia về mặt sức khoẻ, với
kết quả là … ngay cả khi cần thiết và có lợi ích người ta cũng không
chịu tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm thần.
Trong thời gian vừa qua, bệnh tâm thần
đã gia nhập vào một chuyên ngành của y học, với trọng tâm chuyên trị
những bệnh tâm thần nặng. Điều nầy đã xác định lại vai trò của bệnh
tâm thần như là một môn khoa sinh học, và bác sĩ tâm thần học hiện nay
đã giữ vai trò thích hợp hơn, họ là những chuyên gia trị liệu về rối
loạn sinh học, và tâm lý. Điều nầy không có nghĩa là vai trò của bác
sĩ tâm thần chỉ giới hạn trong việc viết toa thuốc ; bác sĩ tâm thần
cũng sử dụng những phương thức trị liệu khác nhau. Nhưng ngày càng
nhiều, các bác sĩ tâm thần bắt đầu tự thu hẹp chuyên ngành của họ : trị
liệu những rối loạn thần kinh nặng. Những điều kiện để giúp đỡ việc trị
liệu cho các bác sĩ tâm thần là trang bị đầy đủ dụng cụ, và tay nghề
cao. Các bác sĩ tâm thần được huấn luyện để giải quyết các hành vi
« bất bình thường » . Trong những trường hợp căn bệnh gần với hành vi
bình thường ( hoặc trung bình), hiệu quả của việc trị liệu tâm thần
khác nhau rất xa giữa việc trị liệu và phương cách trị liệu .
WHO - World Health Organization (Hội
Đoàn Sức Khoẻ Thế Giới) liên tục cố gắng cải thiện tiêu chuẩn chẩn đoán
cho các bệnh tâm thần. Liệt kê danh sách các chứng bệnh quốc tế
(International Classification of Diseases – ICD-10) là một bước tiến
quan trọng. Người ta đang cố gắng để phân ranh giới một cách hệ thống
trong lĩnh vực bệnh tâm thần. Việc nầy giúp cho các bác sĩ tâm thần có
thể chú tâm đến một số nhỏ dân chúng đặc biệt, đê giúp các nhà nghiên
cứu tìm ra những phương thuốc để chữa các chứng bệnh rối loạn tâm thần,
và có thể bảo vệ dân chúng khỏi bị gán cho cái tên bệnh nhân tâm thần.
Tuy vậy, ranh giới vẫn còn mơ hồ. Kể cả một bác sĩ tâm thần giỏi đôi
lúc cũng cảm thấy khó khăn khi phải quyết định nên chữa trị một bệnh
nhân đặc biệt nào đó, hay là cho rằng người ấy không cần sự trị liệu.
Mọi người đều chịu đau khổ từ những
điều bất hạnh khác nhau. Khi đối diện với những vấn đề thương mại, một
người có thể dễ nổi giận, trong khi người khác thì nghiêng về sự buồn
rầu. Trong những lúc nầy, một cá nhân có thể nói là không bị bệnh tâm
thần. Họ có thể được lợi ích từ lời khuyên, sự nâng đỡ của bạn hay thân
quyến, hoặc là bác sĩ tâm thần. Kể cả như vậy, trong cuộc sống, mỗi
con người đều luôn bị dính chặt vào các cuộc thử thách, và đau khổ cứ
liên tục xảy ra.
Một người phải làm thế nào khi đối diện
với những khó khăn trong cuộc sống ? Mỗi một cá nhân cảm thấy đau
khổ khi gặp phải những việc không muốn vẫn xảy ra, và những
việc muốn thì không thành; khi một người có được vật mà họ
không thích, hoặc mất đi vật gì họ thích. Tìm kiếm giải
pháp ở đâu đây ?
Tâm thức là một nguyên nhân chánh.
Chúng ta cần phải tìm hiểu, thăm dò cho đến tận chiều sâu của
nó để có thể điều khiển nó – để giải quyết các khó khăn
của chúng ta. Đây chính xác là một môn khoa học của thiền
định. Thiền định là một môn khoa học nghiên cứu về hịên
tượng tâm thức và vật chất. Môn tâm thần học chỉ tìm hiểu
về tâm thức một cách gián tiếp và chỉ trong phạm vi có thể
khảo sát được qua những hành vi từ lời nói và việc làm.
Trong môn khoa học về thiền định, tâm thức được tìm hiểu một
cách trực tiếp. Môn khoa học nầy đã được thực tập cùng khắp
xứ Ấn Độ từ thời xa xưa.
Sự thật tất cả các hành động
đều bắt nguồn từ tâm thức. Nhưng không phải tất cả những gì
xuất hiện nơi tâm thức đều biểu lộ qua lời nói hay cử chỉ.
Những hành động dường như là tương xứng có thể bắt nguồn từ
những ý muốn thầm kín khác. Thí dụ, một người đứng chết
trân khi thấy một con rắn có thể có hai lý do cho hành động
nầy. Có lẽ anh ta quá sợ hãi; hoặc anh ta có thể rất bình
tĩnh và đứng yên để không làm con rắn sợ, hoặc để quan sát
con rắn. Tương tự như thế, một người có thể cho kẻ nghèo một
đồng bạc, với tâm lượng từ bi; để họ đi cho khuất mắt, hoặc
để cho những người khác không xem anh ta là một người keo kiết.
Vì thế, vấn đề trước nhất là rất khó để
giải thích môn tâm thần học, chiếu theo các kết quả về tâm thức bắt
nguồn từ lời nói và hành động. Tâm thức cần được tìm hiểu trực tiếp.
Một vấn đề khác là các kết quả của cái được gọi là “ thuyết nhị nguyên
của Des Cartes”, sự phân chia tuỳ ý về tâm và thân. Trong một thời
gian rất lâu, các nghề y khoa chuyên môn về thân thể, đã bỏ qua việc
tìm hiểu về tâm thức. Và khi các bác sĩ tâm thần học bắt đầu tìm hiểu
về tâm thức, trong bất cứ phương cách nào, họ bác bỏ thân người. Ngày
nay, tầm quan trọng của phương pháp giải quyết vấn đề có tính cách
thánh thiện được chấp nhận. Tuy vậy, không có một phương thức thẩm vấn
nào được đầy đủ, không có sự hiểu biết thích đáng cho sự tương tác giữa
tâm thần và vật chất, với kết quả là có rất nhiều lý thuyết, nhưng ít
dữ kiện. Hiện tượng thân-tâm không được tìm hiểu một cách đúng đắn.
Những vấn đề nầy được giải quyết xuyên
qua sự hiểu biết đúng đắn về thiền định. Chữ « thiền định » rất đa
dạng trong nhiều định nghĩa. Trong tiếng Anh, từ nầy được sử dụng một
cách thoải mái để chỉ đến việc suy nghĩ về một cái gì đó. Các tự điển
định nghĩa là « trầm tư mặc tưởng » : luyện tập tâm thức trong sự trầm
mặc, chuyên chú đến một chủ đề của sự trầm mặc ; để suy nghĩ, suy tư và
nghiền ngẫm. Khi chúng ta nói đến thiền ở đây, chúng ta không sử dụng
từ nầy trong ý nghĩa chán ngắt đó.
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana
để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. từ nầyy được
dịch đại khái là thiền định. Thiền nói về những thực tập đặc biệt cho
tinh thần, những phương thức chính xác để chú tâm và thanh tịnh hoá
tinh thần. Khi chúng ta sử dụng từ « thiền định » ở đây, chúng ta sử
dụng từ nầy trong ý nghĩa chuyên môn nầy. Hầu hết trong các ngôn ngữ
Ấn Độ, có những từ rất đặc biệt dành cho nhiều loại thực tập thiền khác
nhau, bởi vì Ấn Độ có một truyền thống phong phú về thiền. Những từ như
dhyana, japa, traa.taka, saadhandaa, vipassanaa, (vidarshanaa), bhaavanaa, v..v..., nói
về những loại thực tập khác nhau. Nói chung, thiền là một thực tập về
sự chú tâm của tinh thần về những đối tượng khác nhau. Bởi vì sự chú
tâm của tinh thần là điều kiện trước hết cho bất cứ một nhiệm vụ nào,
đó là một nhân tố rất quan trọng trong việc khám phá hiện tượng thân
tâm. Sự chú tâm có thể thực hành với vô số đối tượng : mắt thấy, tai
nghe, sự tưởng tượng, lời nói, v..v…
Bậc Giác Ngộ đã cho chúng ta một đối
tượng kỳ diệu để chú tâm, hơi thở tự nhiên của chúng ta. Không giống
với những đối tượng khác bên ngoài hoặc không có liên quan trực tiếp
đến tâm thân của chúng ta, hơi thở là một đối thượng có nhiều tiện lợi.
Hơi thở trong ta, và luôn luôn hiện hữu từ lúc sanh ra cho đến lúc
chết. Đây là một thực tế hiển nhiên, rõ ràng. Hơi thở ý thức và vô
thức, có chủ tâm và không chủ tâm. Nhịp điệu của hơi thở liên quan mật
thiết đến trạng thái tinh thần và biết rõ ô uế nào đang xuất hiện nơi ý
thức, kể cả sự loạn động nhỏ nất, cũng làm nhiễu loạn nhịp hơi thở.
Chúng ta không thể tìm thấy một đối tượng để chú tâm nào khác hơn là
hơi thở, vì hơi thở liên quan mật thiết với hiện tượng thân-tâm và nhất
là quá dễ dàng cho việc quan sát.
Tuy vậy, sự chú tâm không phải là mục đích của thiền định ; nó chỉ là một dụng cụ. Dụng cụ để làm gì ?
Ở đây chúng ta gặp cái khó khăn thứ ba
về định nghĩa của thiền nơi khoa học tân tiến. Bốn chân lý huyền diệu
về khổ rất đơn giản, hợp lý và phổ dụng : đau khổ hiện hữu ; nó có một
nguyên nhân ; nguyên nhân nầy có thể bị nhổ tận gốc ; và có con Đường
dành cho việc nhổ gốc đau khổ. Tuy nhiên, những chân lý phổ dụng nầy
không được các bác sĩ tâm thần học tân tiến hoan nghinh, vì tâm lý học
chú trọng nhiều đến « tại sao » hơn là « làm sao » . Thái độ tìm kiếm
định nghĩa trong khi không hiểu chút gì về cơ cấu căn bản của thực tế,
làm cho khó hiểu hơn là nâng cao sự học hỏi về các vấn đề tinh thần của
con người.
Bậc Giác Ngộ là một khoa học gia chân
chính, một khoa học gia lỗi lạc về thân và tâm. Chính Ngài đã không
những khám phá hiện tượng thân-tâm và toàn bộ của nó, Ngài lại còn chỉ
đường cho những người khác, để họ có thể thoát khỏi đau khổ. Ngài dạy
phương thức quan sát tinh thần hoạt động ra sao, như thế nào thân và
tâm tương tác. Ngài dạy Vipassana. (Thiền Minh Sát)
Vipassana có nghĩa là thấy,
thấy một cách đặc biệt, quan sát bên trong. Đây là một sự quan sát có
đối tượng của thực tại bên trong. Việc phát triển về sự nhận biết sâu
sắc về bản thể tự nhiên của một cá nhân . Nó không có những giả
thiết ; chỉ là sự quan sát. Đây là cách thực tiễn để hiểu khó khăn của
chúng ta là đau khổ và giải quyết việc nầy. Khó khăn chung của mọi
người cũng giống như thế, và thuốc giải cũng phổ dụng. Trong
Vipassana, chúng ta học quan sát những cảm xúc của chính chúng ta một
cách khách quan. Các cảm giác là địa điểm gặp mặt của sự tương tác thân
mật giữa thân-tâm. Xuyên qua các cảm giác xuất hiện nơi thân, chúng
được cảm nhận nơi tinh thần. Mỗi một người trong chúng ta là một khoa
học gia của thân và tâm. Chúng ta có sự hiểu biết trực tiếp. Bậc Giác
Ngộ đã trình bày bốn giai đoạn căn bản của tinh thần (tâm) : ý thức,
nhận biết, cảm thọ, và những điều kiện. Về mặt trí thức, không có
người nào phải chấp nhận những giai đoạn nầy ; chúng sẽ trở nên rõ ràng
một khi chúng ta bắt đầu kiểm nghiệm được chân lý nội tại.
Khi chúng ta học quan sát được các cảm
thọ nội tại, theo kinh nghiệm, việc nầy thật rõ ràng là chúng ta tiếp
tục phản ứng theo những cảm thọ nầy. Các cảm thọ là căn bản để các
điều kiện, mô hình cũ của ham muốn và ghét bỏ tăng trưởng. Sự khám phá
sâu sắc nầy là trụ cột cho việc giải thoát, mà Bậc Giác Ngộ đã đưa ra.
Chính điều kiện của chúng ta làm cho chúng ta mãi đau khổ, và chúng sẽ
bị nhổ bỏ tận gốc bằng cách thực tập quan sát đối tượng của cảm thọ.
Thực tập Vipassana, chúng ta không học để phát huy các điều kiện mới
của ham muốn và ghét bỏ các cảm thọ ; và như vậy, chúng ta bắt đầu tiêu
diệt các điều kiện cũ. Sự thực tập là một hành trình từng bước một để
tiêu diệt các ô uế của tâm thức. Do đó, đây là một tiến trình để tiêu
diệt đau khổ.
Không nằm trong môn phái khoa học, kỹ
thuật nầy rất hữu dụng trong việc giúp tất cả mọi người có cuộc sống
tốt đẹp, hạnh phúc, an lạc hơn . Những ai đã từng theo học lớp
Vipassana trong vòng mười ngày, dưới sự chỉ dẫn của một vị thầy giỏi,
lớp học nầy là một kinh nghiệm đổi đời.
Thực tập để khám phá thân tâm ở mức độ
sâu xa nhất thật là không phải dễ. Việc nầy đòi hỏi một sự ổn định,
vững chãi về mặt thân và tâm. Một người cầu đạo chân chính mong cầu
được thực tập thiền Vipassana, họ cần có sức khoẻ tối thiểu ở nơi thân
và tâm. Thông thường, tất cả đều học được, trừ những người bị bệnh tâm
thần. ( Nên liên lạc với bộ quản lý lớp Vipassana trước khi ghi danh để
xem học viên có bệnh, có thể thích hợp cho khoá học hay không.)
Thiền Vipassana là phương thuốc chữa
bệnh phổ biến cho nỗi đau khổ chung. Nhưng điều nầy không có nghĩa là
khoa tâm thần học không có chỗ đứng trong việc giúp đỡ nhân loại đang
đau khổ. Đối với những người điên, không có khả năng để theo học thiền
Vipassana, một công việc hết sức tế nhị. Các bác sĩ chuyên môn về tâm
thần học có thể giúp đỡ, làm giảm nỗi đau khổ của những người bệnh tâm
thần. Ngoại trừ một nhóm nhỏ với các bệnh tâm thần quá nặng, thiền
Vipassana rất hữu dụng cho tất cả mọi người.
Phạm vi của khoa tâm thần học giới
hạn vào một số nhỏ dân số. Nhưng thiền Vipassana thì phổ biến
bao gồm tất cả mọi mặt hoạt động về tâm thần của con người. Khoa tâm
lý học ngụ ý tìm hiểu hoàn toàn về hoạt động tinh thần của con người,
như chúng ta đã bàn qua, đây là môn “khoa học về thái độ cư xử”, và như
vậy nó bị giới hạn. Thái độ cư xử trong ý nghĩa nầy được định nghĩa
như bất kỳ một hành động phản ứng nào cũng có thể bị quan sát bằng cách
nầy hay cách khác . Luận điểm là hành động đó, khác với tâm thức, ý
nghĩ hoặc cảm giác, có thể bị quan sát và nghiên cứu. Ý là ở đây, người
quan sát luôn là người ở ngoài cuộc, một người khác. Các tâm lý gia
hiện đại tin tưởng rằng thái độ cư xử là con đường duy nhất mà các sự
kiện tâm lý nội tại có thể được nghiên cứu kỹ.
Bất cứ người nào theo học khoá Thiền
Vipassana trong vòng mười ngày, đều có thể nhìn thấy sự sai lầm về mặt
nầy của khoa tâm lý học hiện đại . Anh ta biết ngay từ kinh nghiệm bản
thân là các sự kiện tâm lý nội tại có thể được quan sát trực tiếp. Mỗi
thiền sinh của Vipassana đều trở thành một bác sĩ tâm lý thực thụ cho
chính mình. Và xuyên qua môn khoa học thuần khiết về quán sát tự thân,
anh ta bắt đầu thoát khỏi đau khổ.
Nguyện cầu cho nhiều người được bước đi
trên con đường do Bậc Giác Ngộ chỉ dẫn. Nguyện cầu cho nhiều người học
tập quán sát thực tại bên trong. Nguyện cầu cho mọi chúng sinh đều hạnh
phúc, mọi chúng sinh đều an lạc .