Thực hành Giáo Pháp là công trình vô cùng quan trọng. Nếu không có
pháp hành tất cả hiểu biết của chúng ta chỉ là hiểu biết trên bề mặt,
chỉ hiểu biết cái vỏ bề ngoài. Cũng giống như ta có một loại trái cây
nhưng chưa bao giờ ăn đến. Mặc dầu trái cây sẵn có trong tay, nhưng ta
không hưởng lợi ích của nó. Chỉ bằng cách thật sự có ăn, ta mới cảm nhận
được mùi vị của trái.
Đức Phật không ca ngợi những ai chỉ tin tưởng suông nơi người khác.
Ngài tán dương người hiểu biết bên trong chính mình. Cũng như trái cây
kia, nếu ta đã có nếm qua rồi thì không cần phải hỏi ai khác cũng đủ
biết nó chua hay ngọt thế nào. Vấn đề của ta đã chấm dứt. Tại sao đã
chấm dứt? Bởi vì ta đã thấy đúng theo chân lý. Người đã chứng ngộ chân
lý cũng như người kinh nghiệm vị chua hay ngọt của trái cây. Tất cả mọi
hoài nghi đều chấm dứt, ngay tại đây.
Mặc dầu khi đề cập đến Giáo Pháp ta có thể thuyết trình dài dòng
nhưng thông thường tất cả chỉ giản dị bao gồm bốn điều là: hiểu biết Đau
Khổ, hiểu biết Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, hiểu biết sự Chấm Dứt Đau Khổ,
và hiểu biết Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Tất cả chỉ có thế. Tất
cả những gì mà ta chứng nghiệm trên con đường thực hành, đến đây chỉ
keo gọn lại thành bốn điểm ấy. Khi đã trọn vẹn hiểu biết cả bốn, vấn đề
của chúng ta đã chấm dứt.
Bốn điều ấy phát sanh từ đâu? Nó chỉ phát sanh từ bên trong thân và
tâm nầy, không đâu khác. Vậy tại sao Giáo Pháp do Đức Phật ban truyền
lại mênh mông rộng rãi như thế ấy? Đó là vì Ngài muốn giải thích một
cách vi tế với nhiều chi tiết, nhằm giúp chúng ta lãnh hội đầy đủ bốn
điểm ấy.
Khi Thái tử Siddhartha Gotama được sanh vào đời và trước khi chứng
ngộ Giáo Pháp, Ngài chỉ là một người thường như chúng ta. Đến khi thông
hiểu những gì cần phải hiểu, tức chân lý về Đau Khổ (Khổ Đế), về Nguyên
Nhân sanh Khổ (Tập Đế), về sự Chấm Dứt Đau Khổ (Diệt Đế), và về Con
Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ (Đạo Đế) thì Ngài chứng ngộ Giáo Pháp và
trở thành Đức Phật Toàn Giác.
Khi đã chứng ngộ Giáo Pháp thì bất luận nơi nào mà ta ngồi, ta luôn
luôn thông hiểu Giáo Pháp, bất luận nơi chốn nào mà ta ở, ta luôn luôn
nghe lời dạy của Đức Phật. Khi ta thông hiểu Giáo Pháp, Đức Phật luôn
luôn ngự bên trong tâm ta, Giáo Pháp luôn luôn ở bên trong tâm ta, và
pháp hành dẫn đến trí tuệ nằm bên trong tâm ta. Được Đức Phật, Đức Pháp
và Đức Tăng ngự trong tâm có nghĩa là dầu hành động của chúng ta thiện
hay bất thiện, chúng ta vẫn luôn luôn tự mình hiểu biết bản chất thật sự
của nó. Cũng do vậy mà Đức Phật đã gạt bỏ dư luận của thế gian. Ngài
gạt bỏ ngoài tai những lời tán dương hay chỉ trích, và chỉ chấp nhận nó
là vậy. Dầu chỉ trích hay tán dương cũng chỉ là thế gian pháp, không thể
làm cho Ngài chao động. Tại sao? Bởi vì Ngài thấu triệt bản chất của
Đau Khổ. Ngài thấu hiểu rằng nếu tin theo những lời tán dương hay chỉ
trích thì nó sẽ là nguyên nhân sanh đau khổ.
Khi đau khổ khởi sanh thì nó làm cho ta chao động, cảm nghe không
thoải mái. Nguyên nhân của đau khổ ấy là gì? Là bởi vì chúng ta không
thấu hiểu Chân Lý, đó là nguyên nhân. Khi nguyên nhân hiện hữu thì đau
khổ phát sanh. Một khi đau khổ phát sanh thì ta không biết phải làm thế
nào để ngưng nó lại. Ta càng cố gắng chận đứng thì nó càng lấn lướt xông
đến. Ta nói, "Chớ có chỉ trích tôi!" hoặc "Đừng chỉ trích tôi". Cố gắng
chận đứng như vậy ắt đau khổ sẽ thật sự xông đến, không ngừng.
Do đó Đức Phật dạy rằng con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ là làm cho
Giáo Pháp thật sự phát sanh trong tâm của chúng ta. Ta trở thành người
chứng ngộ Giáo Pháp. Nếu có ai khen ta tốt, ta không để bị lạc lối trong
lời khen. Người ta chê mình không tốt, mình không tự quên mình. Làm như
vậy ta hoàn toàn tự do, không dính mắc. "Tốt" và "xấu" chỉ là thế gian
pháp -- những sự vật trong thế gian trần tục. Nó chỉ là những trạng thái
tâm. Nếu ta chạy theo nó thì tâm ta trở thành thế gian. Ta chỉ mù mờ mò
mẫm trong đêm tối mà không biết lối thoát. Làm như thế ắt chúng ta
không tự chủ, không làm chủ lấy mình. Ta cố gắng chiến thắng kẻ khác,
nhưng hành động như vậy ta chỉ chiến thắng chính ta. Trái lại, nếu tự
mình làm chủ lấy mình, ta sẽ chủ động trong tất cả, sẽ làm chủ tất cả --
tất cả những tâm sở, tất cả sắc, thinh, hương, vị, và xúc.
Hiện giờ Sư đang đề cập đến bên ngoài, nó là vậy. Nhưng bề ngoài cũng
ảnh hưởng đến bên trong. Vài người chỉ biết bề ngoài, họ không biết bên
trong. Như khi ta nói, "Nhìn thân trong thân". Nhìn thấy phía bên ngoài
thì không đủ, ta phải hiểu biết thân bên trong cái thân. Và khi quán
chiếu tâm, ta phải hiểu biết tâm bên trong cái tâm.
Tại sao phải quán chiếu thân? "Thân bên trong thân" là gì? Khi nói,
phải hiểu biết tâm, cái "tâm" ấy là gì? Nếu không hiểu biết tâm ắt không
hiểu biết những gì bên trong tâm. Đó là làm người không hiểu biết Đau
Khổ, không hiểu biết Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, không hiểu biết sự Chấm
Dứt Đau Khổ và Con Đường dẫn đến sự Chấm Dứt Đau Khổ. Những gì có khả
năng giúp ta dập tắt đau khổ sẽ không thể giúp, bởi vì ta xao lãng, bị
lạc lối trong những gì chỉ làm cho đau khổ càng thêm trầm trọng. Cũng
như người bị ngứa trên đầu mà gãi dưới chân! Nếu ta bị ngứa trên đầu mà
chỉ gãi dưới chân thì tác động gãi ấy rõ ràng không thể làm cho ta bớt
ngứa. Cùng thế ấy, khi đau khổ phát sanh chúng ta không biết phải đối
phó thế nào, không biết pháp hành dẫn đến chấm dứt đau khổ.
Thí dụ như thân nầy, cái thân nầy mà mỗi người chúng ta mang theo đến
buổi hợp mặt hôm nay. Nếu chúng ta chỉ thấy hình thể bên ngoài của thân
thì không có cách nào lẫn thoát ra khỏi đau khổ. Tại sao? Bởi vì chúng
ta vẫn chưa thấy được bên trong của thân, chỉ thấy bề ngoài. Ta chỉ thấy
nó là cái gì xinh đẹp, cái gì có thực chất. Đức Phật dạy rằng, bấy
nhiêu đó không đủ. Bằng mắt, chúng ta thấy bề ngoài của cái thân. Một em
bé cũng có thể thấy như vậy, không có gì khó. Thấy bề ngoài của thân
thì quả thật là dễ, nhưng khi thấy rồi ta bị dính mắc, kẹt luôn trong
đó. Ta không thông hiểu chân lý của nó, không hiểu biết thật sự nó là
thế nào. Thấy, rồi ta liền chụp lấy và nắm chặt, rồi bị nó cắn!
Như vậy, phải quán chiếu thân bên trong thân. Bất luận gì ở bên trong
thân, ta hãy nhìn vào. Nếu chỉ nhìn bề ngoài ta không thấy rõ. Ta thấy
tóc, lông, móng tay, móng chân v.v... và cho đó là những gì đẹp đẽ, có
sức quyến rũ. Do đó Đức Phật dạy nên nhìn sâu vào bên trong thân, nhìn
thân trong thân. Bên trong thân có gì? Hãy nhìn tận tường, nhìn thật kỷ
vào bên trong! Có nhiều cái sẽ làm cho ta ngạc nhiên bởi vì mặc dầu nó ở
ngay bên trong ta, chúng ta không bao giờ thấy. Mỗi khi đi đâu là ta
mang nó theo, ngồi trên xe ta cũng mang theo, vậy mà ta vẫn không biết
nó chút nào!
Cũng như ta đến nhà viếng một người bà con, và họ cho ta một món quà.
Ta nhận lấy quà, cất giữ trong bị, rồi ra về mà không dở ra xem trong
đó có gì. Khi cuối cùng về đến nhà, dở ra ... thì đấy là con rắn độc!
Thân của ta cũng dường thế ấy. Nếu chỉ nhìn cái vỏ bề ngoài, ta nói rằng
nó xinh tươi đẹp đẽ. Chúng ta tự quên mình. Chúng ta quên lý Vô Thường,
Khổ và Vô ngã. Nếu thận trọng nhìn vào bên trong thân nầy thì quả thật
là đáng nhờm chán. Nếu chúng ta nhìn thấy đúng thực tại, không có dậm
muối hay thêm đường, không tô điểm cho nó, thì ta sẽ thấy rằng thật sự
nó đáng thương hại và đáng chán. Ta sẽ không còn luyến ái, bám níu vào
thân nầy. Cảm giác "không trìu mến" ấy không có nghĩa là ta cảm nghe hờn
giận thế gian hoặc phiền trách bất cứ ai, hay bất luận gì. Chỉ giản dị
là cái tâm của ta sáng tỏ ra và buông bỏ. Chúng ta nhận thấy rằng sự vật
không có chi là thực chất, không có chi mà ta có thể ỷ lại vào. Nhưng
tất cả mọi sự vật đã là vậy, bản chất của thiên nhiên chỉ là vậy. Dầu ta
có muốn nó như thế nào, nó chỉ đi theo con đường của nó. Dầu ta cười,
dầu ta khóc, nó vẫn giản dị như thế nào đúng như nó là vậy. Sự vật nào
không bền vững và ổn định thì nó không ổn định vững bền. Sự vật nào
không đẹp đẽ xinh tươi thì nó không xinh tươi đẹp đẽ.
Do đó Đức Phật dạy rằng khi chứng nghiệm sắc, thinh, hương, vị, xúc,
hay pháp, ta hãy buông thả nó ra. Khi tai nghe âm thanh, hãy để cho nó
qua. Khi mũi hửi mùi, hãy để cho nó qua ... chỉ bỏ nó ở lại mũi. Khi cảm
giác xúc chạm của thân phát sanh, hãy buông bỏ cảm xúc ưa thích hay
ghét bỏ theo liền đó, hãy để cho nó trở về nguyên quán. Tư tưởng phát
sanh cũng vậy. Tất cả những hiện tượng ấy, hãy để cho nó đi theo con
đường của nó. Đó là hiểu biết. Dầu hạnh phúc hay đau khổ, tất cả đều như
nhau. Đó là hành thiền.
Hành thiền có nghĩa là làm cho tâm an lạc nhằm tạo duyên cho trí tuệ
phát sanh. Công trình nầy đòi hỏi phải thực hành với thân và tâm để
trông thấy và hiểu biết những cảm xúc phát sanh do sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp. Thâu gọn lại, nó chỉ là vấn đề hạnh phúc và đau khổ. Hạnh
phúc là hoan hỷ thỏa thích trong tâm. Đau khổ là cảm giác khó chịu,
không thoải mái. Đức Phật dạy nên tách rời hạnh phúc và đau khổ ấy ra
khỏi tâm. Tâm là cái gì hiểu biết. Thọ (vedanà) là đặc tánh của hạnh
phúc và đau khổ, thương và ghét. (Danh từ "thọ" ở đây được phiên dịch từ
Phạn ngữ vedanà, và nên được hiểu trong ý nghĩa mà Ngài Ajahn Chah mô
tả nơi đây; như những tâm sở ưa thích, ghét bỏ, vui buồn v.v ...) Khi
tâm dể duôi, tự buông trôi theo những cảm xúc ấy ta nói rằng nó bám níu
vào, hoặc chấp rằng hạnh phúc và đau khổ đáng được nắm giữ. Bám níu, hay
"thủ" ấy là một sinh hoạt của tâm, còn hạnh phúc và đau khổ là thọ.
Khi nói rằng Đức Phật dạy nên tách rời tâm ra khỏi thọ, không có
nghĩa là vứt bỏ nó ở một nơi nào. Ngài muốn dạy rằng tâm phải hiểu biết
hạnh phúc và hiểu biết đau khổ. Thí dụ như khi tọa thiền, trong trạng
thái định, tâm thấm nhuần an lạc thì hạnh phúc đến, nhưng không để vào
tâm, đau khổ đến, nhưng không để vào tâm. Đó là tách rời thọ và tâm. Ta
có thể ví như nước và dầu trong một cái lọ. Nó không hòa tan. Mặc dầu có
muốn trộn lộn hai thứ, dầu vẫn ra dầu và nước vẫn ra nước. Tại sao vậy?
Vì trọng lượng khác nhau.
Trạng thái như nhiên của tâm là không hạnh phúc, không đau khổ. Khi
thọ nhập vào thì, hoặc hạnh phúc, hoặc đau khổ phát sanh. Nếu có niệm,
ta nhận biết thọ lạc là thọ lạc. Cái tâm hiểu biết không "bốc" nó lên.
Hạnh phúc có đó, nhưng nó "ở ngoài", không đắm chìm trong tâm. Tâm chỉ
hiểu biết rõ ràng.
Tách rời đau khổ ra khỏi tâm. Phải chăng điều nầy có nghĩa là không
còn đau khổ, rằng ta không còn kinh nghiệm đau khổ nữa? Không phải vậy,
ta vẫn còn kinh nghiệm đau khổ, nhưng lúc bấy giờ ta hiểu biết tâm là
tâm, thọ là thọ. Ta không bám chặt vào thọ cảm đau khổ ấy và mang nó đi
theo mình. Đức Phật tách rời những trạng thái ấy bằng tuệ giác. Ngài có
đau khổ không? Ngài biết có trạng thái đau khổ, nhưng không bám giữ. Do
vậy ta nói rằng Ngài cắt đứt đau khổ. Và khi có hạnh phúc, Ngài hiểu
biết đó chỉ là hạnh phúc. Ngài không nắm giữ nó lại và cho rằng nó là
mình. Xuyên qua trí tuệ, hiểu biết rằng có hạnh phúc hiện hữu, nhưng
hạnh phúc không ở trong tâm. Vậy ta nói rằng Ngài tách rời hạnh phúc và
đau khổ ra khỏi tâm.
Nói rằng Đức Phật và chư vị A La Hán diệt trừ ô nhiễm, không có nghĩa
là các Ngài thật sự giết chết ô nhiễm. Nếu các Ngài đã giết chết tất cả
những ô nhiễm thì có lẽ chúng ta không còn ô nhiễm nào! Các Ngài không
giết chết. Khi hiểu biết thực tướng của nó, hiểu đúng như nó là vậy, các
Ngài buông bỏ, để cho nó đi qua. Người điên rồ sẽ nắm giữ nó lại, nhưng
các bậc Giác Ngộ đã thấu hiểu rằng ô nhiễm trong tâm là thuốc độc nên
liền quét sạch nó đi. Các Ngài quét sạch những gì là nguyên nhân tạo đau
khổ chớ không giết chết. Người không thấu hiểu như vậy sẽ thấy những gì
như hạnh phúc là tốt đẹp và nắm chắc, giữ chặt nó lại (thủ), nhưng Đức
Phật chỉ hiểu biết nó và giản dị tẩy sạch nó đi.
Nhưng đối với chúng ta, khi thọ phát sanh thì ta lợi dưỡng trong đó,
có nghĩa là tâm của ta mang hạnh phúc và đau khổ theo cùng với nó. Trong
thực tế, tâm và hạnh phúc hay đau khổ là hai sự việc khác nhau. Những
sinh hoạt của tâm: thọ lạc, thọ khổ v.v... là những cảm xúc. Nó là thế
gian pháp. Nếu tâm hiểu biết như vậy thì dầu hạnh phúc hay đau khổ, tâm
vẫn xem như nhau và phản ứng cùng một cách. Tại sao? Bởi vì tâm hiểu
biết chân lý của sự vật. Người không thông hiểu sẽ thấy hạnh phúc và đau
khổ có hai giá trị khác biệt, nhưng người đã thấu hiểu sẽ thấy nó như
nhau. Nếu quý vị bám chặt vào hạnh phúc thì nó sẽ là nơi phát sanh đau
khổ về sau, bởi vì nó không ổn định vững bền mà luôn luôn biến chuyển.
Khi hạnh phúc tan biến ắt đau khổ khởi sanh.
Đức Phật thấu triệt rằng bởi vì cả hai, hạnh phúc và đau khổ, đều là
bất toại nguyện, tức đau khổ, nên cả hai đều có giá trị bằng nhau. Khi
hạnh phúc phát sanh, Ngài để nó trôi qua. Ngài có pháp Hành Chân Chánh
và thấy rằng cả hai đều có giá trị và sức trở ngại bằng nhau. Cả hai đều
nằm dưới sự chi phối của Định Luật Thiên Nhiên, tức bất ổn định và bất
toại nguyện. Sanh rồi diệt. Khi thấy rõ như vậy Chánh Kiến phát sanh và
pháp hành chân chánh trở nên sáng tỏ. Bất luận cảm thọ hoặc tư tưởng nào
phát sanh, Ngài biết rõ rằng đó chỉ giản dị là trò đùa của hạnh phúc và
đau khổ luôn luôn tiếp diễn. Ngài không bám níu vào.
Khi Đức Phật mới Thành Đạo, Ngài thuyết giảng một thời Pháp về Lợi
Dưỡng trong Dục Lạc và Lợi Dưỡng trong Đau Khổ, "Nầy chư Tỳ Khưu! Lợi
Dưỡng trong Dục Lạc là con đường dể duôi buông lung. Lợi Dưỡng trong Đau
Khổ là con đường căng thẳng." Đó là hai con đường đã làm trở ngại pháp
hành của Ngài chí đến ngày chứng ngộ Đạo Quả, bởi vì trước đó Ngài không
buông bỏ cho nó trôi qua. Khi đã thấu hiểu, Ngài để cho nó trôi qua và
do đó mới có thể ban truyền Bài Pháp Đầu Tiên.
Như vậy chúng ta nói rằng người hành thiền không nên đi trên con
đường của hạnh phúc và đau khổ, mà phải thấu hiểu bản chất của nó. Thấu
hiểu chân lý của Đau Khổ, hành giả sẽ thấu hiểu Nguyên Nhân sanh Đau
Khổ, sự Chấm Dứt Đau Khổ và Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Và con
đường dẫn thoát ra khỏi Đau Khổ chính là pháp môn hành thiền. Nói một
cách khác, ta phải luôn luôn giữ chánh niệm.
Niệm là hay biết, hay có tâm hiện hữu. Ngay trong giờ phút nầy, chúng
ta đang nghĩ gì, chúng ta đang làm gì? Điều gì xảy đến ta trong hiện
tại? Chúng ta quán chiếu như vậy, luôn luôn hay biết ta đang sống như
thế nào. Trong khi thực hành như vậy trí tuệ có thể phát sanh. Lúc nào
chúng ta cũng đang suy niệm và quán chiếu, trong mọi oai nghi đi, đứng,
nằm, ngồi. Khi một cảm giác phát sanh mà ta ưa thích, hãy hay biết đúng
như vậy, nhưng chúng ta không giữ nó lại như một cái gì có thực chất.
Chỉ là hạnh phúc. Khi đau khổ phát sanh chúng ta hiểu biết ngay rằng đó
là Lợi Dưỡng trong Đau Khổ, không phải là Con Đường của người hành
thiền.
Đó là điều gọi là tách rời tâm ra khỏi thọ. Nếu là sáng suốt, ta
không bám níu vào mà để cho sự vật tự nhiên trôi chảy. Chúng ta trở
thành "người hiểu biết". Tâm và thọ cũng chỉ như nước và dầu: cùng ở
chung trong một cái lọ nhưng không hòa tan. Chí đến khi lâm bệnh hay đau
nhức ta vẫn hiểu biết thọ là thọ, tâm là tâm. Chúng ta hiểu biết những
trạng thái đau đớn hay thoải mái dễ chịu nhưng không tự mình đồng hóa
với chúng. Chúng ta chỉ ở với thanh bình an lạc, sự an lạc thanh bình
vượt lên trên cả hai, thoải mái và đau khổ.
Quý vị phải thấu hiểu như vậy, bởi vì đã không có một tự ngã trường
tồn ắt không có chỗ nương tựa. Quý vị phải sống như vậy, tức sống không
có hạnh phúc và không có đau khổ. Quý vị chỉ sống với sự hiểu biết,
không bận bịu mang kè kè sự vật theo mình.
Ngày nào mà chúng ta chưa giác ngộ thì tất cả những điều trên đây
nghe hình như quái lạ, nhưng không hề gì. Chúng ta chỉ nhắm hướng đi.
Tâm là tâm. Tâm sẽ hội kiến với hạnh phúc và đau khổ, và chúng ta chỉ
nhận thấy suông như vậy, ngoài ra không có gì khác. Tách rời riêng biệt,
không trộn lộn. Nếu tâm ta cùng với hạnh phúc và đau khổ pha lẫn nhau,
ắt chúng ta không hiểu biết chúng. Cũng giống như ta đang ở trong một
ngôi nhà; cái nhà và người ở trong nhà liên quan với nhau, nhưng riêng
biệt, không phải là một. Nếu nhà hư hỏng thì ta buồn phiền, vì có bổn
phận phải bảo vệ nhà cửa. Nhưng nếu nhà bị hỏa hoạn, ta phải nhanh chân
chạy thoát ra khỏi đó. Nếu cảm giác đau khổ phát sanh ta phải thoát ra
khỏi đó cũng như ta chạy thoát ra khỏi căn nhà đang cháy. Nó là hai sự
việc riêng biệt; nhà là một việc, người ở trong nhà là việc khác.
Chúng ta nói rằng tách rời tâm và thọ ra khỏi nhau, nhưng trong thực
tế bản chất của chúng là đã rời nhau. Sự nhận thức của chúng ta chỉ giản
dị là hiểu biết trạng thái tách rời khỏi nhau thiên nhiên ấy, đúng như
thực tại là vậy. Nói tâm và thọ không riêng biệt tách rời nhau là bởi vì
do vô minh, chúng ta bám níu vào nó và vì vậy, không thông hiểu Chân
Lý.
Do vậy Đức Phật dạy ta hãy hành thiền. Pháp hành thiền vô cùng quan
trọng. Chỉ hiểu biết suông với kiến thức không đủ. Trí tuệ phát sanh do
pháp hành với tâm an lạc và kiến thức đến với ta bằng cách học hỏi,
nghiên cứu thật sự cách nhau xa biệt. Sự hiểu biết thâu thập bằng cách
học hỏi không phải là hiểu biết thật sự của tâm. Cái tâm chỉ cố gắng bám
chặt và giữ lại điều học hỏi hiểu biết ấy. Tại sao ta cố gắng giữ lại?
Chỉ để nó mất đi! Và khi nó mất ta than khóc.
Nếu thật sự hiểu biết ắt sẽ không có tình trạng cố gắng giữ lại, mà
cứ để nó tự nhiên trôi qua, để cho sự vật tự nhiên, đúng như sự vật là
vậy. Chúng ta thấu hiểu sự vật là thế nào và không tự quên mình. Nếu
không may lâm bệnh, chúng ta không để lạc lối trong đó. Vài người nghĩ
rằng, "Năm nay tôi bệnh suốt năm, không hành thiền được chút nào." Đó là
lời nói của người thật sự cuồng si. Người đang bệnh hoặc sắp lâm chung
càng phải chuyên cần tinh tấn hành thiền. Có thể ta nói rằng người ấy
không có thì giờ để hành thiền. Người ấy bệnh, người ấy đang bị đau
nhức, người ấy không còn tin tưởng nơi cơ thể mình, và do đó cảm nghe
rằng mình không thể hành thiền. Suy tư như vậy sự việc ắt trở nên khó
khăn. Đức Phật không dạy như vậy. Ngài dạy rằng ngay tại đây chính là
nơi hành thiền. Khi lâm trọng bệnh hoặc lâm chung là lúc mà ta có thể
thật sự hiểu biết và nhận thức thực tại.
Vài người khác nói rằng họ không may mắn được hành thiền vì luôn luôn
có việc làm bận rộn. Có vài vị giáo viên đến đây viếng Sư và nói rằng
vì đa đoan với nhiệm vụ, họ không có thì giờ để hành thiền. Sư hỏi họ,
"Trong khi dạy học Ông có thì giờ để thở không?" Họ trả lời, "Bạch Sư,
Có". "Nếu công việc bề bộn và đa đoan, làm thế nào Ông có thì giờ để
thở. Nơi đây Ông đã rời xa Giáo Pháp."
Thật ra pháp hành chỉ liên quan đến tâm và những cảm giác. Nó không
phải là điều gì mà quý vị phải chạy theo hoặc phải tranh đấu để được.
Trong khi làm việc ta vẫn thở. Chính thiên nhiên đã chăm lo để cho tiến
trình thở-vào-và- thở-ra được tự nhiên -- tất cả những gì ta cần phải
làm chỉ là hay biết. Quý vị chỉ chuyên cần cố gắng, nhìn trở lại vào bên
trong và thấy rõ ràng. Hành thiền là vậy.
Nếu chúng ta giữ tâm hiện hữu như vậy thì bất luận trong công việc
nào mà ta làm, nó sẽ là dụng cụ hữu hiệu giúp ta luôn luôn hiểu biết
điều nào là phải và điều nào sai. Có rất nhiều thì giờ để hành thiền,
chỉ vì ta không thông hiểu đầy đủ pháp hành. Chỉ có thế. Trong khi ngủ
ta thở, ăn ta thở, có phải vậy không? Tại sao không có thì giờ để hành
thiền? Bất cứ ở đâu ta cũng thở. Nếu nghĩ như vậy thì kiếp sống của
chúng ta có giá trị nhiều như hơi thở, bất luận ở đâu ta cũng có thì
giờ.
Tất cả các loại tư tưởng đều là những điều kiện tinh thần không thuộc
về cơ thể, như vậy ta chỉ cần giữ tâm hiện hữu và chừng ấy lúc nào
chúng ta cũng sẽ hiểu biết điều nào là phải, điều nào sai. Đi, đứng,
nằm, ngồi, có rất nhiều thì giờ. Chỉ vì ta không biết xử dụng một cách
thích nghi. Xin quý vị hãy suy xét lại.
Chúng ta không thể bỏ chạy lẫn trốn những cảm giác, phải hiểu biết
nó. Cảm giác hay thọ, chỉ là cảm giác, hạnh phúc chỉ là hạnh phúc, đau
khổ chỉ là đau khổ. Nó chỉ giản dị là vậy. Tại sao ta phải bám níu vào
nó? Nếu tâm sáng suốt thì chỉ nghe bấy nhiêu cũng đủ để tách rời thọ ra
khỏi tâm.
Nếu chúng ta thường xuyên quán chiếu như vậy, tâm sẽ nhẹ nhàng, nhưng
đó không phải là tẩu thoát qua đường lối của vô minh. Tâm buông bỏ,
nhưng nó hiểu biết. Không phải buông bỏ vì si mê, hay buông bỏ vì không
muốn sự vật giống như thế đó. Tâm buông bỏ, không bám níu vào thọ vì ta
hiểu biết đúng theo Chân Lý. Đó là nhận thức Thiên Nhiên, thấy đúng thực
tại ở quanh mình.
Khi hiểu biết được như vậy ta đã là người thuần thục đối với tâm và
đối với thọ. Khi đã thuần thục làm chủ mình trước những thọ cảm, ta cũng
thuần thục đối với thế gian. Đó là người "Hiểu Biết Thế Gian". Đức Phật
là bậc hiểu biết rõ ràng thế gian và những vấn đề khó khăn ở thế gian.
Ngài hiểu biết rằng những gì khuấy động và những gì không khuấy động đều
ở ngay tại đây! Thế gian nầy quả thật phức tạp, làm sao Đức Phật có thể
thấu hiểu được? Nơi đây ta phải nhận thức rằng Giáo Pháp do Đức Phật
ban truyền không vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Trong tất cả mọi
oai nghi -- đi, đứng, nằm, ngồi -- chúng ta phải giữ tâm hiện hữu và tự
hay biết mình, và khi tọa thiền cũng vậy, luôn luôn chú niệm và tự hay
biết mình.
Ta ngồi thiền để củng cố trạng thái tâm an lạc và trau giồi tâm lực.
Không phải ngồi đó để làm chuyện gì khác. Thiền Minh Sát là tọa thiền và
an trụ tâm trong trạng thái định (samàdhi). Ở vài nơi người ta bảo,
"Bây giờ ta hãy ngồi thiền Định (Samàdhi), rồi sau đó hãy thiền Tuệ."
Không nên phân chia như vậy. Trạng thái vắng lặng là nền tảng để trí tuệ
phát sanh; trí tuệ sẽ được khai triển trên nền tảng vắng lặng. Nói rằng
giờ đây hãy hành thiền Vắng Lặng, sau đó sẽ hành Minh Sát -- ta không
thể làm như vậy! Ta chỉ có thể phân chia như vậy qua lời nói. Cũng như
lưỡi dao, bề mặt ở một bên, bề trái ở bên kia. Quý vị không thể phân
chia. Nếu lấy bề mặt lên thì cũng lấy lên cả hai bề. Trạng thái vắng
lặng làm nền tảng cho trí tuệ phát sanh cũng cùng thế ấy.
Giới đức là cha và mẹ của Giáo Pháp. Từ lúc sơ khởi chúng ta phải
nghiêm chỉnh trì giới. Giới là an lạc. Trì giới có nghĩa là giữ thân và
khẩu trong sạch, không nói và không hành động sai lầm. Không làm gì sai
quấy thì không bị khuấy động, không chao động tâm sẽ được an lạc thanh
bình và dễ dàng an trụ. Do đó ta nói rằng Giới, Định, và Tuệ là Con
Đường mà tất cả chư bậc Hiền Thánh đều đã trải qua để thành tựu Đạo Quả.
Tất cả ba pháp là một. Giới là Định, Định là Giới. Định là Tuệ, Tuệ là
Định. Cũng giống như một trái xoài. Khi còn là bông thì ta gọi là bông
xoài. Lúc trở thành trái, ta gọi là trái xoài, và đến lúc chín thì ta
gọi là trái xoài chín. Tất cả chỉ là một trái xoài luôn luôn thay đổi
trạng thái. Trái xoài già lớn lên từ xoài non. Xoài non trở thành trái
xoài già. Ta có thể gọi bằng những danh từ khác nhau nhưng tựu trung chỉ
là một trái xoài. Giới, Định, Tuệ cũng liên hệ với nhau cùng một thế
ấy. Sau cùng tất cả ba pháp đều nhập chung lại thành Con Đường dẫn đến
Giác Ngộ.
Trái xoài, từ lúc sơ khởi là bông xoài, chỉ giản dị trưởng thành để
trở nên xoài chín. Bấy nhiêu đã đủ, ta phải thấy như vậy. Dầu ai khác có
gọi nó như thế nào, điều ấy không thành vấn đề. Một khi được sanh ra nó
lớn dần đến già, và rồi đến đâu? Ta phải suy niệm như vậy.
Vài người không muốn già. Khi thấy tuổi già đến thì họ buồn phiền,
luyến tiếc thời son trẻ. Những người ấy không nên ăn xoài chín! Tại sao
họ muốn xoài non trở thành chín? Dầu xoài không chín đúng lúc họ cũng
giú ép, có phải vậy không? Nhưng khi chính ta trở thành già, ta lại
tiếc. Vài người than khóc, sợ già, hay sợ chết. Nếu như vậy thì họ chớ
nên ăn xoài chín mà chỉ ăn bông xoài! Nếu thấy được như vậy ắt ta có thể
trông thấy Giáo Pháp. Mọi việc đều sáng tỏ, chúng ta an lạc. Hãy quyết
tâm thực hành như vậy.
Hôm nay có Ông Cố Vấn Trưởng cùng nhiều quan khách đến nghe Pháp. Quý
vị hãy nhận lãnh những gì Sư giảng để về nhà suy gẫm. Nếu có điều sai
lầm xin quý vị thông cảm cho Sư. Tuy nhiên có hiểu được là đúng hay sai
cũng tùy theo pháp hành và quan kiến của quý vị. Bất cứ gì là sai, hãy
vứt bỏ. Điều nào đúng, hãy giữ lấy để xử dụng. Nhưng trong thực tế,
chúng ta thực hành để buông bỏ cả hai, đúng và sai. Điều đúng, hãy vứt
bỏ; điều sai, vứt bỏ. Thông thường, nếu là đúng thì ta bám níu vào tánh
cách đúng của nó, còn sai thì ta giữ lại cái sai, rồi sau đó tranh luận,
bàn thảo v.v... Nhưng Giáo Pháp là nơi chốn mà không có gì -- không có
gì cả!