Phật pháp ứng dụng
Vượt Qua Cạm Bẫy Cuộc Đời
Thích Đạt Ma Phổ Giác
06/07/2013 22:09 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

ĐÔI LỜI TÂM SỰ
Tôi lúc trước si mê cùng lầm lạc
Gây biết bao khổ não cho nhiều người
Nhờ Tam Bảo, mẹ hiền đã tế độ
Tôi vượt qua bao ngục tù tăm tối
Để rồi đây kết nguyện với muôn loài
Hầu đền đáp, sẻ chia cùng tất cả
Để cùng nhau kết nối tình yêu thương

Đã làm người trong thiên hạ ai không một lần thất bại. Nếu ta ngồi yên hay đứng lại một chỗ thì không bao giờ vấp ngã, càng bước đi, càng dễ vấp ngã, nhưng nó không làm chết đi những con người tài đức, mà chỉ là thử thách, tôi luyện thêm ý chí, lập trường cho người có đức hạnh và tài ba. Ngược lại nó sẽ quật ngã những kẻ mềm lòng, yếu đuối, bạc nhược, dễ duôi, không có khả năng kiên nhẫn, chịu đựng, để rồi rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi. Nghịch cảnh hay chướng duyên, không phải là tảng đá lớn ngăn cản bước đi của chúng ta. Nó chỉ là thềm đá rộng giúp bước chân chúng ta đi đều và vững vàng hơn trong cuộc hành trình trở về thế giới tâm linh của chính mình. Giống như cục đất sét khi chưa được nhào nặn để đưa vào lò nung đúng độ, gặp trời mưa chúng sẽ rã ra, không còn xài vào việc gì được nữa, thậm chí còn làm tổn hại đến nhiều người.

Ngược lại, cục đất sét kia sau khi đã được con người nhào nặn và tôi luyện đúng độ trong lò nung sẽ dễ trở thành một bình trà xinh xắn, cuối cùng đã giúp con người có những tách trà thơm ngon. Chúng tôi chân thành xin mời tất cả bạn lữ gần xa cùng ngồi lại bên nhau thưởng thức những tách trà thơm ngon, tinh khiết. Xin mời!

Đã làm người ai không một lần vấp ngã hay thất bại! Vấp ngã nhiều hay ít thực ra không quan trọng, mà quan trọng là sau khi vấp ngã chúng ta có can đảm đứng dậy hay không? Chúng ta có dám mạnh dạn nhận diện lỗi lầm để làm mới lại chính mình, hay vượt qua không nỗi để rồi phải chịu mang họa vào thân, cuối cùng bị mặc cảm, tự ti, hối hận suốt cuộc đời chôn vùi trong khuất lấp và sống trong đau khổ, lầm mê. Để vượt qua lỗi lầm sau khi vấp ngã, chúng ta phải tự đứng lên mặc dù rất khó, nhưng nếu không nhận ra được lỗi lầm, dù có muốn làm mới lại cuộc đời, làm mới lại chính mình cũng phí công vô ích. Vì sao? Vì không thấy mình sai thì làm sao sửa sai?

Cho nên, người có lỗi lầm sau khi vấp ngã hãy can đảm nhận ra điều sai quấy của mình có nguyên nhân từ đâu, do khách quan hay chủ quan; nếu là khách quan thì nên quán chiếu, xem xét trở lại, tự mình an ủi lấy mình, biết đây là nghiệp xấu đã gieo tạo từ trước giờ đến hồi trả quả. Một con người đáng được tán thán và ca ngợi không phải ở chỗ chưa bao giờ vấp ngã mà sau khi vấp ngã người đó có dám mạnh dạn đứng lên hay không?

Chúng ta đã biết, trong đời này có hai hạng người đáng được tán thán và tôn kính. Hạng người thứ nhất chưa từng lầm lỗi, hạng người thứ hai đã từng gieo tạo tội lỗi, nhưng biết ăn năn sám hối hứa chừa bỏ và không còn tái phạm lỗi lầm. Giống như con cá khi đã bị mắc vào lưới mà còn tìm cách nhảy ra để được thoát thân thì không phải hay là gì? Cũng đồng là cá, biết bao con khác phải nằm chờ chết vì không đủ sức vùng vẫy thoát ra, nên đành cam chịu số phận tối tăm. Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới dụ cho người mắc phải sai lầm làm những điều tội lỗi nhưng biết quay đầu làm mới lại chính mình. Thế gian này vượt cạn lên bờ được mấy ai? Ý chí, niềm tin và nghị lực có thể giúp chúng ta vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Ma túy, cờ bạc, rượu chè, đàng điếm… chúng ta có thể vượt qua một cách dễ dàng, song để sống làm người không vì lợi ích riêng tư, luôn sống vì tha nhân, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình thì mới là điều khó làm nhất của một con người.

Ta không thể thay đổi hoàn cảnh hiện tại, nhưng ít ra ta cũng phải thích nghi với cuộc sống thực tế khi đối mặt với khó khăn và chướng ngại. Người có khả năng tu tập thì dễ dàng vượt qua sóng gió cuộc đời. Người thiếu niềm tin về chính mình thường không sáng suốt nhận định đúng sai, dễ trở nên oán giận, thù hằn, tạo ra nỗi khổ niềm đau cho nhau, cuối cùng chuốt họa vào thân và chấp nhận cuộc đời đen tối. Ý chí niềm tin và nghị lực là ba điều không thể thiếu trong cuộc sống, để chúng ta vững vàng bước đi những bước chân trên khắp nẻo đường trong cuộc sống vốn nhiều thay đổi và đầy gian nan, thử thách. Chúng ta phải tin rằng không có gì là cố định, mọi thứ đều có thể thay đổi được. Nhờ có ý chí, ta mới có thể học hỏi từ những thất bại đã qua, cố gắng vươn lên vượt qua số phận, không nản lòng, thất chí khi gặp phải khó khăn, chướng ngại.

Ai cũng có khả năng và sức mạnh của ý chí đang tiềm ẩn nơi mỗi con người chúng ta để vươn lên làm mới lại chính mình. Muốn vượt qua số phận ta phải kiên nhẫn, bền chí, can đảm, dũng mãnh, siêng năng, tinh tấn để làm mới lại cuộc đời. Trong cuộc sống ít ai hoàn hảo về mọi mặt vì đã gieo nhân tốt xấu lẫn lộn. Muốn vượt qua cạm bẫy cuộc đời chúng ta hãy nên chiêm nghiệm câu thơ của Nguyễn Du đã viết trong truyện Kiều: “Tu là cội phúc, tình là dây oan.”

Tại sao “tu là cội phúc, tình là dây oan?” Chữ tu ở đây không phải là gì cao siêu, mầu nhiệm, không phải cạo đầu vô chùa hay vào rừng sâu núi thẳm mới gọi là tu. Tu có nghĩa là chuyển hóa thay đổi, buông xả những gì chấp mắc, trói buộc làm chúng ta không được an vui, hạnh phúc, làm cho mình và người khổ đau. Tình ở đây mang ý nghĩa thâm sâu hơn, tình là những thói quen xấu có tính cách hại mình, hại người, làm khổ đau cho nhau như tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, hiểm độc hận thù, ganh ghét phá bỏ, triệt tiêu, hủy diệt, nên mới nói “tình là dây oan”.

Một cục muối, một củ cà rốt, một quả trứng sau khi được đun sôi một thời gian chúng ta sẽ thấy thế nào? Cục muối với hình dáng bên ngoài coi có vẻ rắn chắc nhưng khi bỏ vào nước từ từ sẽ bị hòa tan theo thời gian; củ cà rốt cứng chắc cũng mềm đi khi bị nấu chín; còn quả trứng tuy vỏ mỏng manh nhưng khi được luộc qua nước sôi nóng bỏng lại trở nên cứng cáp hơn. Cũng vậy, nếu con người không được tôi luyện trong gian khó sẽ dễ dàng gục ngã trước phong ba bão táp cuộc đời và khó có thể làm mới lại chính mình.

Bằng kinh nghiệm của bản thân sau khi vấp ngã được Phật pháp cứu vớt làm mới lại cuộc đời, chúng tôi có đôi lời chân thành xin được chia sẻ cùng chư huynh đệ pháp lữ gần xa. Một chút tâm tình mong được kết duyên sâu cùng với tất cả mọi người.

Thường Chiếu ngày 10 tháng 8 năm 2010 - PHONG TRẦN CUỒNG NHÂN


VƯỢT QUA CẠM BẪY CUỘC ĐỜI?

Dòng đời nghiệt ngã luôn cuốn trôi tất cả dù đó là nhân nghĩa của một con người. Vì thế, vượt cạn lên bờ được mấy ai? Đường đời nhiều nỗi gian nan trắc trở, đứng trước dòng thác lũ cuộc đời với vô vàn sự cám dỗ, nhiều chông gai, nhiều cạm bẫy; muốn thưởng thức cái hoa hồng đẹp chúng ta phải chấp nhận thân gai góc của nó; hạnh phúc-khổ đau, thương yêu-thù hận, hơn thua-được mất, con người lúc nào cũng loay hoay lẩn quẩn trong cái vòng ấy. Do đó, chúng ta luôn bị dòng xoáy cuộc đời nhấn chìm và cuốn trôi. Muốn vượt qua dòng thác lũ cuộc đời không phải dễ dàng và đơn giản. Nó đòi hỏi chúng ta phải có thời gian suy xét, chiêm nghiệm, tìm tòi, quán chiếu, soi sáng, nhờ vậy chúng ta thấu rõ được sự vô thường của vạn vật nên bớt tham lam, nóng giận và si mê.

Đã làm người ai không một lần vấp ngã, nhưng điều quan trọng hơn hết là sau khi vấp ngã chúng ta có chịu khắc phục sửa sai và làm mới lại cuộc đời hay không? Người không có ý chí, niềm tin về chính mình sẽ bị gục ngã trước phong ba bão táp cuộc đời, nên dễ dàng buông xuôi cho số phận, đành cam chịu sống trong phiền muộn, khổ đau và chấp nhận cuộc đời đen tối.

Đức Phật là bậc toàn tri toàn giác, là tấm gương tiêu biểu cho kiếp nhân sinh, là bậc minh sư chân chánh, là vị thầy dẫn đường có một không hai trên thế gian này, Ngài giúp chúng ta vượt qua biển khổ sông mê để làm mới lại chính mình. Ngài đã vượt qua vòng xoáy cuộc đời bằng kinh nghiệm xương máu của chính mình. Ngày nay, người con Phật được thấm nhuần lời dạy của ngài để vươn lên làm lại cuộc đời vượt qua khổ đau, sanh tử. Ngài đã tìm ra chân lý cho con người, giúp con người không còn bị lệ thuộc vào đấng quyền năng siêu hình. Làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước giáng họa, cho rằng có một đấng tối cao sắp đặt và định đoạt tất cả.

Đạo Phật đã mở ra một trang sử mới, một trang sử huy hoàng nhất trong lịch sử nhân loại chưa từng có từ trước đến nay, giúp con người tìm ra sự thật của chính mình. Chúng ta là chủ nhân ông của bao điều họa phước. “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành, mọi người đều được bình đẳng như nhau”, đây là một câu châm ngôn bất hủ chỉ có trong đạo Phật được lưu truyền cho đến ngày nay.

Một hôm, tại tịnh xá Kỳ Viên, trời đã gần về khuya, một ánh sáng chói lòa làm sáng cả khu vườn Cấp Cô Độc. Một chư Thiên ở cõi trời xuống hỏi đức Phật: Kính bạch đức Thế tôn, làm thế nào để chúng con vượt khỏi bộc lưu.   Phật dạy: Không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.

Qua bài pháp ngắn, chúng ta học được gì từ lời dạy của Thế Tôn, Ngài không nói gì cao siêu huyền bí, chỉ đơn giản một câu thật ngắn gọn và xúc tích làm cho chư Thiên nhận ra đạo lý chân thật một cách rõ ràng không ngoài sắc thân hư dối tạm bợ này. Người đời vì mải mê chạy theo danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ nên lúc nào cũng bị dòng nước tham-sân-si cuốn trôi, do đó bị phiền muộn, khổ đau chi phối. Ngày nay, với nhận thức sáng suốt, chúng ta học đạo lý chân thật qua lời dạy Thế Tôn, ai muốn sống an vui hạnh phúc thì phải biết gieo trồng phước đức.

Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là nhân dẫn đến đau khổ; bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ, là nhân dẫn đến an vui, hạnh phúc. Do bám víu, dính mắc, chấp trước nên người đời đam mê chạy theo dục vọng thấp hèn, mà tham muốn của chúng sanh thì vô cùng tận; do đó, chúng ta dễ dàng bị cuốn trôi tất cả, dù đó là nhân nghĩa của một con người. Một cuộc đời, một cuộc sống luôn lẫn lộn những buồn vui-thương ghét, được mất-hơn thua, phải quấy-tốt xấu, nên hư-thành bại, cuối cùng ai ra đi cũng với hai bàn tay trắng, không đem theo được gì  và không biết đi về đâu?

Đa số mọi người trên thế gian này đều mắc phải lỗi lầm như thế, nên Phật nói “tất cả bị dòng nước cuốn trôi”. Thế giới loài người chúng ta luôn xảy ra chiến tranh, thiên tai, sóng thần, động đất, bão lũ, hỏa hoạn, ô nhiễm môi trường cũng từ lòng tham con người mà ra. Tham lam, sân hận, si mê, làm cho con người gây ra không biết bao tội lỗi, nên đa số đều sống trong đau khổ, lầm mê.

Vậy thế nào là bị dòng nước nhấn chìm? Đây là chỉ cho những người đang tu hành, nhưng vì không gặp bậc minh sư chân chánh, thầy lành bạn tốt hướng dẫn, nên bị lạc vào đường tà, bị mắc mứu trong hang cùng ngõ cụt, trở lại phỉ báng Phật pháp, chấp trước vào những giáo điều cấm thủ; như ở Ấn Độ tu tập theo cách sống của loài chó hoặc hành hạ sắc thân cho tàn hoại để được chứng đạo. Vì vậy, Phật nói “bị dòng nước nhấn chìm”, Phật do không chạy theo đam mê dục lạc, không cố chấp hủy hoại thân này, nên Ngài an nhiên, tự tại, giải thoát và không còn bị sự ràng buộc của thế gian. Với tâm nguyện từ bi bao la rộng lớn, đức Phật đã hiến dâng đời mình trong công cuộc hoằng hóa độ sinh, dạy cho chúng ta biết đạo lý làm người trong đối nhân xử thế, hưởng được phước báo trời người, xa hơn nữa Ngài chỉ cho ta phương cách giác ngộ và giải thoát để vượt qua nỗi khổ, niềm đau của sanh tử.

Dù nói hay, dù nói giỏi, nhưng thiếu tu chẳng khác gì đãy đựng sách.            Không nói nhiều, nhẫn nhịn nhường, hay khiêm tốn như hoa sen vượt bùn lầy.          Học và tu luôn song hành; dù nói ít vẫn lợi lạc khắp quần sanh. Việc tu học không đơn giản như mọi người lầm tưởng, người trí thì một nghe ngàn ngộ, tự điều phục chính mình. Còn phàm phu tục tử như chúng ta phải nương thầy lành bạn tốt, lánh xa người xấu ác mới có thể vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Đạo Phật không đặt nặng ở chỗ nói hay nói giỏi mà trọng ở chỗ thực hành, nói và làm tương ưng với nhau; dùng thân giáo để điều phục chúng sinh bằng những việc làm thiết thực tốt đạo, đẹp đời.

Người tu theo đạo Phật học mà không tu giống như đãy đựng sách, học hiểu lời Phật dạy để biết được lẽ thực của cuộc đời thật giả phân minh. Khi hiểu được rồi chúng ta phải biết ứng dụng thực hành, chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau thành an, vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Người tu mà không học giống như tu mù, dễ dẫn đến lầm đường, lạc lối, nên vô tình phỉ báng Tam bảo. Người quá ham tu nghe ai nói tu từ ba tháng hoặc một năm sẽ được chứng đạo nên không cần học hỏi, do đó tu mù luyện quáng, cuối cùng rơi vào si mê, tà kiến.

Vì vậy, các tổ thường nói: “Y kinh giải nghĩa oan cho chư Phật ba đời, lìa kinh một chữ tức đồng ma nói”. Nhiều người chấp vào kinh từng lời, từng chữ, ai nói khác đi một chút thì không chịu, cho rằng nói sai lời Phật dạy. Nhưng họ không biết thời Phật còn tại thế chỉ truyền miệng và được các thế hệ đệ tử đọc tụng  sao này mới ghi lại bằng sách vở. Kinh điển nguyên thủy thường được lặp đi, lặp lại nhiều lần là để cho người học dễ nhớ. Ngày nay, qua nhiều đời dịch thuật để phù hợp với phong tục tập quán các nước, nên đôi khi cũng có nhiều sơ xót, vì vậy chúng ta không nên chấp vào từng lời, từng chữ trong kinh mà phê phán đúng sai. Người học Phật chân chánh chỉ cần biết rõ nội dung Phật dạy những gì nếu không sai ý Phật là được.

Thời Phật còn tại thế không cho người xuất gia trụ xứ một chỗ, chỉ tùy duyên khất thực độ sanh, không cho Tăng chúng bám víu vào tài sản sở hữu riêng, nên tu hành dễ dàng chứng đạo. Ngày nay, do nhu cầu chung của xã hội không cho phép chư Tăng ni đi khất thực, người xuất gia phải ở tại chùa thọ nhận sự cúng dường của đàn na tín thí đem đến; nếu y theo lời Phật dạy ngày xưa, người tu trong thời hiện tại vi phạm giới luật, đã phạm giới luật làm sao tu? Đạo Phật ra đời là tùy bệnh cho thuốc, tùy theo phong tục tập quán, tùy theo căn cơ, trình độ, sở thích, nguyện vọng của mọi người để làm lợi ích cho tha nhân.

Thời xưa, quan niệm người tu là phải lìa bỏ tất cả, không bám víu vào sở hữu riêng tư, nên phải tùy duyên đi khất thực. Ngày nay, xã hội không chấp nhận như vậy nên đạo Phật cũng linh động, uyển chuyển theo thời để dễ dàng tu học và giáo hóa, đạo đời không thể tách rời nhau. Theo lời Phật dạy: Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này, từ con người cho đến muôn loài muôn vật đều phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn sự sống. Vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Chúng ta thử làm một bài toán so sánh, nếu y kinh giải nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời, còn nếu lìa kinh một chữ tức đồng ma nói, nhà Phật có một công thức bất di bất dịch là: tứ pháp ấn, tam pháp ấn, nhất pháp ấn. Tứ pháp ấn là: vô thường, khổ, không, vô ngã. Tam pháp ấn là: vô thường, vô ngã, niết bàn tịch tịnh. Nhất pháp ấn là: Phật tánh hay cái biết sáng suốt nơi mỗi người chúng ta. Ngoài ba công thức trên, Phật còn dạy ta biết được đạo lý làm người, gìn giữ năm điều đạo đức, tu mười điều thiện ích, giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc để vượt qua cạm bẫy cuộc đời; dám làm, dám chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác của chính mình, không đổ thừa cho ai hết. Chỉ có giáo lý nhà Phật mới dạy cho ta được đầy đủ những điều hay lẽ phải và Ngài khẳng định rằng “ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, không ai có quyền ban phước giáng họa”. Luật nhân quả luôn âm thầm tác động, chi phối hành động của mọi người mà cho ra kết quả tốt xấu không ai giống ai, người giàu kẻ nghèo, người tốt kẻ xấu, người sang kẻ hèn v.v...

Trong báo pháp luật và cuộc sống số 27 tháng 9 năm 2010 có đăng tin, một người tình, một người vợ vĩ đại với tấm lòng vị tha đã cảm hóa một tướng cướp từng bị truy nã gắt gao bằng tình yêu chân thành của mình. Giờ đây anh là một giám đốc doanh nghiệp ăn nên làm ra với một người vợ ngoan hiền, dễ thương, cùng các đứa con xinh xắn. Anh thật sự đã hoàn lương và xứng đáng là người chồng, người cha nhờ người vợ nhân hậu với tấm lòng bao dung, độ lượng. Nếu không có chị thì anh giờ đây phải sống trong ngục tù tội lỗi. Anh thầm cảm ơn chị đã đem đến cho anh một tình yêu thương chân thành nhất, để giờ đây anh mới cảm nhận được thế nào là an vui, hạnh phúc.

Phạm văn Bình (tức Bình bò) là biệt danh của tướng cướp từng gây nhiều trọng án, từng gây ra nỗi kinh hoàng và sợ hãi cho nhiều người. Từ nhỏ, anh ta được bố mẹ chiều chuộng quá mức nên đua đòi theo chúng bạn xấu ác làm những điều sai quấy như trộm cắp, móc túi, giựt dọc và từng bảo kê một vài tụ điểm nổi tiếng. Tuổi đời tuy chưa được 12, anh đã phải vào trường dành cho thiếu niên hư hỏng. Sau khi được mãn hạn giáo dục trở về, tưởng anh cố gắng tu chí làm ăn nhưng không ngờ vẫn chứng nào tật đó, anh trở nên lì lượm bản lĩnh, bắt đầu tập hợp các tay anh chị ma cô tổ chức cướp giựt có vũ khí bằng cách đánh nhanh rút gọn, gây sự chú ý hoang mang cho nhiều người và làm đau đầu các nhà chức trách.

Anh ta một thời tung hoành ngang dọc cùng đám bạn giang hồ thứ thiệt tại các tỉnh miền Bắc. Vì quá nổi danh nên anh coi thường thiên hạ, thật ra chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa đi mưa chưa thấy lạnh và chắc chắn đi đêm cũng có ngày gặp ma; trong một phi vụ cướp giựt ở Hà Nội, anh ta cùng đồng bọn bị sa lưới và được đưa đi cải tạo lâu dài. Thời gian ở tù 7 năm đã làm cho anh chai lì và hung dữ hơn. Anh giống như một con thú hoang điên cuồng chưa được điều phục, hung hăng, dữ dằn đã tổ chức trốn trại, rồi cướp vũ khí của một cán bộ quản giáo và bắn một công an bị thương.

Sau khi trốn khỏi trại giam Thanh Cẩm- Thanh Hóa, anh ta phải trốn chui, trốn nhũi, luôn sống trong lo âu, sợ hãi. Những ngày tháng ấy Phạm văn Bình sống lang thang, vất vưỡng như con ma đói và chỉ mong làm sao qua mắt được pháp luật ngày nào hay ngày đó. Anh ta thật sự chưa có một ngày an vui hạnh phúc vì luôn sống trong phập phồng lo sợ, để rồi mai đây không biết số phận của mình sẽ ra sao? Mỗi một ngày trôi qua là một ngày anh ta thở phào nhẹ nhõm vì chưa bị ai phát giác ra mình là kẻ tội phạm trốn lệnh truy nã đặc biệt.

Giờ thì anh đang sống êm đềm hạnh phúc bên mái ấm gia đình với người vợ thủy chung, nhân hậu tuyệt vời và các con ngoan hiền, xinh xắn. Thật là một điều kỳ diệu nhiệm mầu không thể ngờ. Nếu ngày ấy không có cô thôn nữ Phạm Thị Huyền sống hy sinh, cao thượng thì bây giờ cuộc đời anh sẽ ra sao? Gông cùm, tù tội và khổ đau. Anh bây giờ là một giám đốc có uy tín luôn đem lại bình an và hạnh phúc cho nhiều người, không bao giờ làm ai phiền muộn về mình nếu ai có duyên gặp anh. Sự đổi thay này như có một phép mầu vô tận nhờ tấm lòng vị tha của người vợ ngoan hiền đã chịu đựng, hy sinh suốt cả thời gian dài để giúp anh làm mới lại cuộc đời, làm mới lại chính mình bằng tình yêu thương chân thành nhất.

Anh nhớ lại những ngày mới trốn trại và lây lất sống qua ngày bằng cái nghề móc túi trên các chuyến xe khách Bắc Nam. Trong thời gian này, anh phải lòng cô thôn nữ diệu hiền bán hàng nước ở đất Phú Xuyên- Hà Tây. Anh dấu bật tung tích của mình và nói dối với nàng ấy rằng anh là tài xế lái xe Bắc Nam, tên là Tuấn. Cứ thế ngày lại ngày qua, sau nhiều lần trò chuyện tâm tình cùng với những món quà hết sức ấn tượng, trái tim hai người đã bắt đầu rung động theo nhịp đập của con tim. Họ đã thật sự yêu nhau tha thiết và đắm đuối. Với thân phận một tên tướng cướp đang bị lệnh truy nã xưa nay chưa từng làm việc nặng nhọc, nhưng vì sức mạnh của tình yêu đã giúp anh hăng say lao vào công việc đồng áng một cách nhiệt tình và tích cực, nhờ vậy anh được lòng cả gia đình chị.

Dù được chị yêu thương nhưng anh vẫn cứ phập phồng lo sợ vì quá khứ tội lỗi của mình. Anh tự suy nghĩ bâng quơ, rồi đây mình sẽ vĩnh viễn mất hết tất cả khi mọi người biết được sự thật anh là tên tội phạm. Tình yêu giữa hai người càng ngày càng gắng bó sâu đậm, đó là dấu hiệu báo trước cuộc tình ta tan vỡ kể từ đây. Rồi chuyện gì đến sẽ đến, anh đã bị phác giác; biết được chuyện tình của hai người không thể tách rời nhau được, các công an chuyên án dùng tình yêu thương để thuyết phục anh, nhờ chị động viên an ủi và khuyên anh ra đầu thú để hưởng chính sách khoan hồng.

Như sét đánh ngang tai, một sự thật quá phũ phàng, chị không ngờ người mình yêu là tướng cướp đang bị lệnh truy nã khẫn cấp. Cả gia đình chị ai cũng đều bàng hoàng, sửng sốt về người rể tương lai. Chị không đủ can đảm và nghị lực để bỏ anh vì chị đã yêu anh thật sự. Chị quá đau khổ vì đã trót lỡ yêu anh nhưng dứt không được, bỏ thì không đành. Bằng tất cả sức mạnh tình yêu và nghị lực phi thường, chị chấp nhận hy sinh tất cả để động viên khuyên anh ra đầu thú cùng với những lời hứa hẹn thủy chung: Em sẽ chờ anh, em sẽ đợi anh về và chỉ có anh là hình bóng để em nương tựa suốt cả cuộc đời. Anh yên chí học tập cải tạo tốt để mau sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Em sẽ là mãi mãi của riêng anh. Những lời nói ấy lúc nào cũng văng vẳng bên tai anh như được rót mật vào lòng. Bao nhiêu dự định toan tính để chuẩn bị vượt biên trong vài ngày nữa bổng phút chốc tan thành mây khói. Anh ra đầu thú theo tiếng gọi của tình yêu và nhờ vậy anh đã làm mới lại chính mình để vươn lên vượt qua số phận tội lỗi.

Phép mầu thứ nhất từ người vợ ngoan hiền đã yêu anh chân thành và chấp nhận hy sinh tất cả, giúp anh vượt lên mặc cảm tội lỗi quá khứ để làm mới lại cuộc đời. Trong thế gian này nếu không có tình yêu thương nhân loại, tình người trong cuộc sống và tình yêu lứa đôi thì cuộc đời này trở nên khô cằn, héo hon. Nhờ tình yêu lứa đôi con người mới tự hoàn thiện chính mình, xây dựng hạnh phúc gia đình và dấn thân phục vụ, góp phần an vui vào cộng đồng xã hội. Phép mầu thứ hai là nhờ lòng bao dung và sự cảm thông của cha mẹ vợ khiến anh cảm nhận được tình người trong cuộc sống; và chính cha mẹ vợ anh chấp nhận cho anh cùng con gái cưới nhau trước khi vào trại để lãnh án tù mà không sợ tiếng đời bêu rếu. Cảm động trước tình yêu chân thành của người vợ trẻ và được sự hun đúc động viên của cha mẹ vợ, anh như người chết đi sống lại thức tỉnh cơn mê muội, quyết định làm mới lại cuộc đời.

Anh thật sự hạnh phúc hơn bao giờ hết vì được tất cả mọi người quan tâm, ưu ái và tạo tất cả mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp anh làm mới lại chính mình. Nhờ vậy, anh không còn phải bận tâm, lo lắng và yên chí, bền lòng một mực cố gắng học tập, cải tạo và lao động tốt để mau sớm trở về đoàn tụ với gia đình. Ước mơ của anh đã trở thành sự thật, anh được nhà nước ân xá và giảm án gần một nửa thời gian. Chị ấy, người vợ nhân hậu thủy chung đã cảm hóa anh bằng tình yêu thương chân thật từ tấm lòng hy sinh cao cả và sức chịu đựng bền bỉ kiên cường. Thật ra, anh quá diễm phúc gặp được người vợ hiền lương mẫu mực, nhân từ và đạo đức. Nhờ cô thôn nữ hiền thục đã hết lòng vì anh hy sinh hết tất cả và chị còn rước đứa con riêng của anh về nhà chăm sóc, nuôi nấng tử tế, đàng hoàng để anh yên tâm học tập, cải tạo tốt.

Ngày anh trở về, cha mẹ vợ đã cho anh miếng đất để cất nhà ở và còn cho anh mượn sổ đỏ để anh thế chấp vay vốn làm ăn. Trời đã không phụ người biết ăn năn hối cải để làm mới lại cuộc đời, và giờ đây anh thật sự hoàn lương sống hạnh phúc bên mái ấm gia đình. Anh luôn tự hào, hãnh diện về sự chung thủy của vợ mình, khi chưa lấy anh có rất nhiều người đến dạm hỏi nhưng cô đều một mực từ chối. Anh rất mực cảm động trước tấm lòng hy sinh cao cả của người vợ và sự hỗ trợ đắc lực của cha mẹ vợ, cùng với chính sách khoan hồng và sự độ lượng của quý ban chính quyền các cấp giúp anh sớm hoàn lương trước thời hạn gần một nửa. Để động viên, an ủi chồng những năm tháng ở tù, chị càng cố gắng làm lụng siêng năng hơn và chấp nhận nhín ăn, bớt mặc để đủ tiền nuôi đứa con riêng của anh và dành dụm chút ít hàng tháng đến thăm anh. Nếu không có người vợ ấy, chắc chắn cuộc đời anh đã chết chìm trong tội lỗi.

Đây là câu chuyện khó tin nhưng có thật, để những ai còn đang say mê, đắm chìm trong vũng bùn tội lỗi hãy nên sớm hồi tâm quay đầu làm mới lại chính mình, cùng vươn lên, vượt qua số phận u mê, tăm tối. Anh Bình đã hư hỏng và phạm tội do thói quen tham muốn hưởng thụ quá nhiều, nên từ nhỏ đã móc túi trộm cắp, lường gạt nhiều người, vì vậy cuộc đời của anh luôn gắn liền với tù tội. Ấy thế mà, nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ đã dám hy sinh tất cả đã giúp anh hoàn lương làm lại cuộc đời và làm mới lại chính mình.

Hiện tại, anh Bình là một giám đốc doanh nghiệp ăn nên làm ra, đảm bảo nuôi sống gia đình và cùng tham gia góp phần xây dựng, đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Chúng ta thử nhìn lại quá khứ của vị giám đốc này xem sao, từ nhỏ đã ma cô theo thói côn đồ, móc túi trộm cướp, bảo kê một vài tụ điểm, được đưa đi giáo dưỡng các trại thanh thiếu niên hư hỏng, tưởng đã hoàn lương làm lại cuộc đời, không ngờ sau khi được giáo dục trở về vẫn chứng nào tật đó ngựa quen đường cũ; anh bắt đầu tham gia vào các phi vụ cướp giựt có quy mô tổ chức lớn, nên cuối cùng bị sa lưới pháp luật trở lại.

Thông thường, các tội phạm bị giam giữ lâu ngày trong các trại giam không được nghe các câu chuyện về các bậc thánh nhân vĩ đại, để học hỏi những điều hay lẽ phải và bắt chước làm theo cái hay của các ngài. Chính vì thế, có nhiều người mới ban đầu chỉ phạm tội nhẹ do một phút bốc đồng nóng giận, nhưng sau khi ra tù lại gây tội ác tày trời như lường gạt, cướp của giết người một cách dã man. Bởi vì, trong tù hằng ngày phải tiếp xúc với nạn đại bàng lộng hành chuyên trấn lột và áp bức tù nhân, cuộc sống trong tù hằng ngày phải tiếp xúc với các tay giang hồ bịp bợm, đầu trộm đuôi cướp, ích kỷ, độc ác, nên càng ở tù lâu càng dễ bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu. Vì thế, trại tù chỉ là nơi giam giữ tạm thời chứ không có phương pháp giáo dục cụ thể, nên vấn đề hoàn lương là một vấn nạn cần phải nghiên cứu và hội thảo để tìm ra quyết sách tốt đẹp.

Nhớ lại quá khứ tội lỗi của mình khi xưa, tôi phải thầm tán dương người đã hoàn lương trong câu chuyện này. Bản thân tôi khi ra tù quyết định làm lại cuộc đời, nhưng cầm tờ đơn xin việc trên tay đi đến đâu cũng đều bị từ chối. Lý lịch đen đã làm tôi đau khổ tột cùng, mặc cảm, tự ti với thân phận thấp hèn của mình, nhưng biết làm sao đây? Điên tiết, buồn chán, hận thù và bất mãn lên tột đỉnh, muốn làm lại cuộc đời mà chẳng được. Thật ra, ai cũng có ước mơ đáng quý và trân trọng nhưng vì thiếu hiểu biết và mê muội nên hành động trong vô minh. Ai cũng muốn có cơ hội tốt làm mới lại cuộc đời và có một việc làm ổn định để nuôi sống bản thân. Cuộc sống của chúng ta sẽ không còn giá trị khi phải ăn bám cha mẹ hoặc sống nhờ vào người thân. Chán chường, buồn tủi, héo sầu, cô đơn với những giây phút vô cùng bi quan, chán nản, trong cơn tuyệt vọng não nề chúng tôi cảm thấy phiền muộn, hận thù nhiều hơn. Mặc cảm, tự ti trong tâm trạng khổ đau vô cùng, tôi luôn oán than, trách móc xã hội, hận đời đen bạc. Nhớ lại khi xưa mình đã đã làm lại cuộc đời nhờ tham gia vào lực lượng TNXP phục vụ các vùng kinh tế mới, thế là còn chút hy vọng mong manh tôi đã xin trở lại Lực lượng TNXP để làm mới lại cuộc đời. Các bạn bè của tôi ngày xưa ai cũng thăng quan tiến chức hết, riêng tôi phải sống trong mặc cảm dày dò, chính vì thế mà tôi bắt đầu sa ngã trở lại.

Nhưng rồi thời gian cũng trôi qua, tôi đã có vợ có con, hoàn cảnh cuộc sống lúc này càng khó khăn hơn. Tôi đã tán tận lương tâm bỏ ra đi để lại nỗi đau người vợ trẻ và hai đứa con thơ khi đứa con thứ hai mới vừa đầy tháng tuổi. Tôi tiếp tục lao vào các cuộc vui chơi trác táng với một suy nghĩ nông cạn “chết là hết, không có ngày mai” và lần này tôi hoàn toàn bị bế tắc, tưởng chừng như không còn lối thoát. Chính Phật pháp đã cứu đời tôi nhờ sự hướng dẫn và sự hy sinh cao cả của người mẹ. Anh Bình nhờ tình yêu thương chân thành của người vợ đã chấp nhận hy sinh tất cả, bất chấp mọi đàm tiếu dư luận thế gian, nhân tình thế thái, nàng vẫn một lòng chung thủy và kiên nhẫn bền chí chịu đựng. Đây là mối tình đẹp như mơ làm nên lịch sử có một không hai trên thế gian này, để lại tiếng thơm muôn thuở cho đời, như hương thơm luôn bay ngược chiều gió, nhờ sức mạnh của tình yêu lứa đôi, cùng với sự hy sinh cao cả của người vợ, nhờ lòng bao dung và tha thứ, cảm thông và độ lượng. Hồi gia và hoàn lương để làm lại cuộc đời cho những con người lầm lỗi không phải là chuyên đơn giản và dễ làm, đó là vấn nạn cho những người đang nắm cán cân công lý và trách nhiệm của gia đình .

Mới đây, trong báo công an đã thông tin nhân đạo, ông Liên Khui Thìn- người đã có sáng kiến đề xuất và thành lập quỷ hoàn lương được nhà nước chấp nhận hiện đang hoạt động chính thức. Đây là điều kiện thứ nhất làm cho người hoàn lương không bị tổn thương, tự ái và mặc cảm nhờ bảo mật lý lịch quá khứ. Thứ hai là giúp cho người hoàn lương phải có đời sống kinh tế ổn định với việc làm chân chánh. Thứ ba là được sự hỗ trợ và giúp đỡ của gia đình, không bị  người thân hất hủi, coi thường và khinh khi. Thứ tư là phải sám hối phát nguyện hứa chừa bỏ, không tái phạm lỗi lầm vì biết được sự tác hại của nó. Thứ năm phải có ý chí, niềm tin, nghị lực và tin sâu nhân quả, đây là điều kiện tiên quyết để người hoàn lương thật sự vươn lên, vượt qua số phận của chính mình. Thứ sáu hoàn lương đối với con nghiện ma túy là một vấn đề nan giải và phức tạp, bởi khả năng để khắc phục cơn ghiền lâu dài đối với tệ nạn này quả thật rất khó. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chỉ số con nghiện hoàn lương thật sự có kết quả tối đa từ 3% đến 6% là cùng.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi, qua thời gian tiếp xúc với nhiều con nghiện ma túy, hầu như đại đa số đều bó tay xin chào thua, không đủ khả năng để vượt qua cơn nghiện lâu dài. Nó giống như cơn bệnh ung thư phải dùng hóa chất cực mạnh để cầm cự, ma túy làm cho con người thèm khát đến cực độ và vật vã đến tột cùng. Chúng tôi cũng không phải là người hay ho tài giỏi gì, ngày xưa vượt qua được là nhờ đam mê đậm đà thứ khác và chỉ thật sự vượt qua chính mình là nhờ gặp Phật pháp. Hiện nay chỉ có một phương pháp duy nhất là cách ly con nghiện hoàn toàn với một trung tâm giáo dục lâu dài, nếu làm được như vậy thì xã hội sẽ giảm bớt tổn thất thiệt hại về kinh tế quốc gia, giảm bớt thiệt hại về con người, giảm bớt các chứng bệnh của thời đại và nhiều thiệt hại khác không thể tính kể. Nếu không thì cả nhân loại sau này sẽ sống chung với ô nhiễm đa năng, cùng các bệnh ngặt nghèo của thế kỷ và sẽ làm cho con người bị băng hoại đạo đức, bị thiệt hại tổn thất nặng nề về con người và kinh tế, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng đã đến hồi báo động. Ngay bây giờ các nhà lãnh đạo đất nước kết hợp với các ban nghành đoàn thể nên cùng ngồi lại hội thảo vấn nạn ma túy toàn cầu. Nếu không có biện pháp thích hợp để ngăn chặn tệ nạn ma túy và giải pháp hoàn lương đúng đắn, thì sự thiệt hại tổn thất quá lớn lao không thể tính kể đối với con người và xã hội về sau.

DO ĐÂU SANH LẦM LỖI?    

Đã làm người trong trời đất ai cũng muốn công danh tột đỉnh, giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng. Chính vì vậy, con người bất chấp mọi hiểm nguy, chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, nên động cơ lập nghiệp do lòng tham lam sai sử làm tổn hại nhiều người. Có người đạt được công danh hiển hách, công thành danh toại, có người cũng đuối sức oằn oại, rơi vào hố sâu vực thẳm, rốt cuộc chỉ còn tay trắng. Chỉ vì động cơ lập nghiệp từ sự ham muốn quá độ mà lòng tham con người thì không bến bờ nhất định như giếng sâu không đáy. Trong khi đó, sức người có hạn, càng tham lam bao nhiêu thì càng mau tan hoại và sụp đổ bấy nhiêu; vì vậy mà cơ cầu xây dựng sự nghiệp của mình bằng xương máu thiên hạ thì sự nghiệp mau chóng điêu tàn. Bởi tại sao? Vì tham cho riêng mình nên càng vơ vét, bóc lột nhiều của thiên hạ, do đó dễ dẫn đến gây thù, chuốc oán. Đã gây thù chuốc oán thì trước sau gì cũng tàn sát, giết hại lẫn nhau. Đó là quy luật vay trả, trả vay theo tiến trình diễn biến của nhân quả.

Để biết được lòng tham của con người đến độ nào, một vị vua ra lệnh cho một người: “Kể từ rạng sáng ngày mai, khi mặt trời mới mọc cho đến khi mặt trời lặn, ngươi khoanh vùng chu vi đất được bao nhiêu ta sẽ cho hết”. Nghe xong, người kia vô cùng mừng rỡ, liền trở về nhà bàn bạc với vợ con làm cách nào để có thật nhiều đất, “phen này gia đình chúng ta sắp giàu to rồi”, người thì bàn thế này, kẻ thì bàn thế kia, cuối cùng anh ta quyết định sẽ không lãng phí một phút giây nào khi chưa hết giờ đo đất. Hôm sau, anh ta đã có mặt sẵn từ tờ mờ sáng trước đền vua. Khi mặt trời vừa ló dạng, anh ta cắm đầu chạy không màng đến cơm nước gì cả, nhìn lại thấy khoảnh đất vẫn còn quá nhỏ mặc dù đã mệt lã người nhưng anh vẫn tranh thủ không bỏ phí chút thời gian nào. Mặt trời đã ngã về chiều như báo hiệu sắp hết giờ đo đất, anh cố ráng thêm chút nữa, nhưng sức người có hạn và cuối cùng anh ngã quỵ bên vệ đường.

Câu chuyện trên mang tính cách biểu trưng, minh họa cho lòng tham không bờ bến của con người như giếng sâu không đáy. Con người thì không có tội lỗi gì, chỉ có tâm tham lam ích kỷ điều hành sai sử, thân này chỉ là vật phụ thuộc, muốn làm cái gì thì trước hết phải suy nghĩ, tính toán rồi mới làm. Nhưng con người thường không biết, tưởng thân này là chủ tể cố định nên làm cái gì cũng để phục vụ cho thân này, vì vậy mà sinh ra si mê, tham đắm, ích kỷ, cho thân này là thật ta và sẽ trường tồn mãi mãi. Nếu nó là ta thì trước sau như một không thể thay đổi, chuyển biến; nhưng từ khi mở mắt chào đời cho đến khi khôn lớn, thân này luôn thay hình đổi dạng tùy theo thời gian của mỗi người mà có hình dáng và tính cách khác nhau. Con người sống ở đời luôn phải chạy đua với thời gian để tranh thủ sở hữu được nhiều thứ về mình. Chúng ta nếu không nhận thức đúng về giá trị cuộc sống thì cũng giống như chàng trai tham đất trong câu chuyện.

Do lầm chấp thân này thật là ta nên làm cái gì cũng vơ vét về cho mình, do đó tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh ra thù hằn, giận dữ. Đã hận thù thì trước sau gì cũng gây khổ đau cho nhau, do đó sống trong bất an, lo âu và sợ hãi. Chúng ta lúc nào cũng lo sợ đủ thứ, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ mất mát, sợ thiệt thòi nên cố giữ gìn, giữ không được thì sinh ra đau lòng tiếc nuối, nên khổ đau bắt đầu có mặt. Ở đời ít ai bằng lòng với hiện tại, lúc nào cũng ham muốn khổ cầu, lao tâm nhọc trí để được tiền tài, danh vọng, quyền lợi, địa vị, sắc đẹp, ăn sung mặc sướng… nhưng mấy ai được thỏa mãn nhu cầu tham muốn của mình, bởi lòng tham con người không đáy và đời sống con người thì quá ngắn ngủi, mong manh, tạm bợ, có người sự nghiệp chưa thành đã ra người thiên cổ.

Vì lòng tham vốn vô hạn mà sức con người thì có hạn, nên người con Phật ngoài việc làm ăn để sinh sống cũng cần dành chút thời gian nghiên cứu, học hỏi, tu hành. Thế gian này là một chuỗi dài nhân duyên, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, tất cả đều nằm trong lý tương đối, chúng ta không gieo nhân tốt mà đòi gặt quả lành làm sao được. Nhiều người không hiểu chỉ biết làm sao để giành lấy về cho mình, lấy không được thì sinh ra tức giận, thù hằn, ghét bỏ, rồi tìm cách trả thù khi có cơ hội, nên càng thêm gây thù, chuốc oán. Chúng ta có quyền tham muốn nhưng phải lấy nhân quả làm nền tảng, gieo nhân lành thì được quả tốt, gieo nhân ác thì phải chịu khổ đau, quả trổ sớm hay muộn là do các duyên phụ thuộc, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, chúng theo ta như bóng với hình. Chúng ta có mặt trong cuộc đời với hai bàn tay trắng và khi ra đi cũng với chừng ấy mà chỉ mang theo nghiệp tốt xấu, lành dữ. Người con Phật hãy nên sáng suốt chọn lựa cho mình một con đường hướng thượng, đừng vì tham cầu cho cá nhân quá mức như chàng trai trên mà mang họa vào thân.

CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI MỚI HAY

Trước những mất mát thiệt hại và khổ đau của nhân lọai, đời sống con người thật bấp bênh trong bầu vũ trụ bao la này. Đã làm người ai không khỏi một lần rơi nước mắt, kiếp luân hồi dài đăng đẵng, mệt mỏi, chán chường, thất vọng, lo âu. Thức đêm mới biết đêm dài, đường xa mới thấy càng thêm mệt mỏi, con người cứ mãi lăn lên lộn xuống, khi thì hưởng phước báo cõi trời muốn gì được nấy không cần phải làm lụng vất vã; lúc thì tung hoành ngang dọc khiêu chiến khắp các cõi trời người, chẳng coi ai ra gì như các vị Thần A Tu La; khi thì nửa khóc nửa cười, vui ít khổ nhiều trong thế giới Ta bà này; có lúc khổ đau cùng cực, bị hành hạ và đọa đày trong ngục tù tội lỗi không có ngày cùng; có khi thì ngu si, mê muội, lạc loài, không biết gì trong các lòai súc sinh và cam chịu đói khát vật vờ trong tận cùng sâu thẳm của kiếp ngạ quỷ ( quỷ đói ). Nếu ai biết gieo trồng phước đức, gìn giữ năm điều đạo đức, làm mười việc thiện, tu tập thiền định thì được đi ba đường trên; ngược lại thì bị đọa xuống ba đường dữ để chịu khổ đau triền miên trong dòng đời vô tận.

Ý thức được kiếp người vui ít khổ nhiều, luôn bị nhiều thứ ràng buộc không có ngày hạnh phúc thật sự. Có hai huynh đệ trên đường đi tìm chân lý tình cờ đi ngang qua dòng sông thấy một ghe chài đang dùng lưới để đánh bắt cá, lưới đang được từ từ kéo lên ghe, một con cá nhảy vọt ra khỏi lưới.  Vị sư huynh thấy thế liền vỗ tay, khen: “Hay quá! Hay quá! Con cá giống người tu”. Vị sư đệ nói: “Có gì mà hay! Cá ở ngoài lưới mới hay”. Vị sư huynh nói : “Ngươi chưa hiểu hết thâm ý của ta”. Hai người mới đi thêm một đoạn đường khoảng vài cây số, vị sư đệ mới nhận ra được thâm ý sư huynh nên thành tâm sám hối. Câu chuyện trên đã cho ta một bài học sống ở đời, học chuyện xưa để ngày nay mọi người chúng ta cùng nhau suy gẫm. Ai trong cuộc đời chưa từng một lần vấp ngã? Vậy cá ở ngoài lưới mới hay, hay là cá nhảy khỏi lưới mới hay?

Nếu cá ở ngòai lưới thì còn gì để nói, cá đã vào lưới mà còn nhảy ra được thì mới thật là hay. Đạo lý nhà Phật dạy cho mọi người ngay nơi nghiện ngập si mê luôn bị phiền não chi phối và sai sử, chúng ta cố gắng vượt qua được mới thật là hay. Sống ở đời trước sự cám dỗ của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ kỹ, nên đa số chúng ta đều bị lưới ái tình xiết chặt làm cho mê muội, đắm say, giống như cục nam châm khi gặp sắt tự động hít vào. Con người lúc nào cũng khao khát, thèm thuồng, quyến luyến như dòng nước thấm ướt, mặc dù không ai chỉ bày dạy bảo mà con người vẫn tự cảm biết, nên khi gặp người khác phái thì trái tim bị rung động, thổn thức, dẫn đến yêu thương, hò hẹn và kết tình chồng vợ. Từ đó phát triển mạnh mẽ thêm nghiệp nhân tình ái, càng ngày càng thêm sâu kín, đậm đà.

Một nữ tử tù bị kết án tử hình vì tội tổ chức mua bán ma túy. Trong thời gian chờ thi hành án, nằm trong phòng biệt giam chờ ngày chết, không biết ả đã cấu kết bằng cách nào để làm xiêu lòng hai cán bộ quản giáo cho phạm nhân vào quan hệ với ả, cuối cùng ả đã có bầu. Từ án tử hình được giảm xuống còn án chung thân và ả nhờ đó mà thoát chết. Câu chuyện này khó tin nhưng mà có thật, được đăng trên báo đời sống và pháp luật. Vì vậy, Phật thường dạy thế gian này nếu có cái thứ hai giống nghiệp tình ái, bảo đảm không ai có thể tu chuyển được, may mà chỉ có một thứ ấy đã làm điêu đứng cả loài người. Thực tế bây giờ cũng có một thứ làm chết người trong thiên hạ là ma túy, ai dính vào vòng này khó bề vượt qua, họa hoằng lắm chỉ có một vài người bỏ hẳn, không tái nghiện. Nằm trong phòng biệt giam, đối diện với cái chết trong từng phút giây, vậy mà ả vẫn có thể dùng mỹ nhân kế để thuyết phục hai cán bộ quản giáo và cuối cùng phải chịu chia án với ả, mỗi người sáu năm tù giam.

Tình đời là thế đó, nếu nó không có sức quyến rũ, hấp dẫn lạ kỳ thì người ta đâu phải mệt nhọc làm lụng vất vã, có khi phải bỏ mạng sa trường cũng vì chút ấy. Như cuộc sống loài tằm tự nhả tơ quấn quanh mình làm kén, bao che thân thể để bảo toàn mạng sống, nhưng khi được kín đáo rồi thì người ta cho vào nồi nước sôi luộc chết. Ngược lại, nữ tử tù kia biết lợi dụng điểm yếu của đa số con người khó ai thoát được vòng lẩn quẩn ấy, nên đã cứu ả thóat khỏi cái chết trong tầm tay. Luật pháp dù nghiêm minh tới đâu vẫn còn kẽ hở vì bị tiếng sét ái tình chi phối, con người cũng vì chút đó mà rơi vào vòng lao lý, tù tội. Thế nhân tự nghĩ lại xem, ai trong cuộc đời có đủ khả năng và bản lĩnh để vượt qua nó, ngoại trừ các vị Bồ Tát và các bậc tu hành chân chánh.

Cũng đồng là cá, bao nhiêu con cá khác không thể vẫy vùng để nhảy ra khỏi lưới, cuối cùng bị người đánh cá bắt bỏ vào giỏ chờ giờ làm thịt. Vậy con cá kia nhảy ra khỏi lưới không giống người tu là gì? Nếu mới sinh ra ai cũng là Thánh hết thì chúng ta đâu cần phải tu làm chi cho mệt nhọc và uổng công vô ích. Chính chúng ta huân tập nhiều thói hư, tật xấu, nghiện ngập, đam mê, đắm say đủ thứ, tham lam, sân giận, si mê, ích kỷ, ganh ghét, hận thù. Nhờ gặp Phật pháp đã giúp chúng ta biết cách làm chủ bản thân để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Vậy ngay bây giờ, người con Phật hãy dùng tuệ giác của chính mình để chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Nếu ai chấp nhận số phận đã an bài giống như bèo dạt mây trôi, mặc tình đi theo dòng đời mê muội, ai làm sao mình làm vậy, chẳng cần suy nghĩ tìm tòi, đành chịu chết chìm trong vũng bùn tội lỗi. Người như thế thì trên trách trời, dưới oán ghét xã hội sao quá bất công, để rồi mãi mãi phải chịu sống trong phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta vấp ngã ngay nơi đất thì cũng từ đất đứng lên, không nên oán trách, đổ thừa cho ai cả, mà chính mình phải tự vươn lên để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Phật và Bồ tát chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn cho chúng ta, còn làm được hay không phải do chính bản thân mình. Vì thế, đứng trước dòng thác lũ cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn bình yên vô sự nhờ biết áp dụng lời Phật dạy. Ai cũng biết sự cám dỗ của tiền tài, sắc dục, lợi danh luôn thôi thúc mời gọi chúng ta, nếu không có sức tỉnh giác ta sẽ dễ dàng gục ngã trước dòng xoáy cuộc đời và sống trong đau khổ, lầm mê.

Phật nói, trong đời có hai hạng người đáng được tôn kính và tán thán ca ngợi: Hạng người thứ nhất từ nhỏ đến lớn chưa từng vi phạm lỗi lầm, nhưng luôn làm những điều thiện ích để giúp đỡ nhân loại. Hạng người thứ hai hay làm những việc xấu ác, hại mình, hại người, nhưng biết ăn năn sám hối, quyết chừa bỏ, cố gắng khắc phục, sửa sai, ý chí dũng mãnh, tinh tấn tu hành, dám chịu từ bỏ những thói hư, tật xấu để làm mới lại chính mình. Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới là chỉ cho hạng người thứ hai, đã vào lưới mắc lưới mà còn nhảy ra được, không phải hay là gì! Vì vậy, Thiền sư khi thấy cá nhảy khỏi lưới mới khen rằng: “Hay quá! Con cá giống người tu”. Người con Phật cần phải thấu đáo chỗ này để cố gắng tiến tu, bởi có lỗi lầm nên quý vị mới đến chùa sám hối, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền và hay làm những điều phước thiện. Còn nếu chúng ta cứ chấp nhận số phận như một định mệnh, phó mặc cho thần linh thượng đế, chẳng cần phấn đấu vươn lên làm lại cuộc đời thì vô tình đẩy ta vào con đường cùng, không lối thoát.

Đạo Phật không chấp nhận như thế, không thể đổ thừa cho số phận rồi nói theo thực thể cố định như có một cái gì quy định sẵn. Hạng người như vậy đáng thương hơn là đáng ghét vì họ thiếu hiểu biết, ít học hỏi, chẳng bao giờ gieo trồng phước đức, nên suy nghĩ và hành động không sáng suốt, đành cam chịu chấp nhận số phận đã an bài, để rồi suốt cuộc đời sống trong đau khổ, lầm mê. Định kiến này sẽ không còn tác dụng đối với người dám làm mới lại chính mình, dám từ bỏ những điều bất thiện và quyết tâm khắc phục lỗi lầm, vì nhân quả có thể thay đổi được. Nếu nói cái gì cũng là cố định hết thì trên đời này không một ai tu được, nếu có tu cũng chẳng lợi ích gì.

Trở lại câu chuyện cá nhảy khỏi lưới đã bị vướng vào lưới mà còn nhảy ra được, Thiền sư khen “con cá giống người tu”, vậy thế nào là người tu? Người tu ở đây không hạn cuộc là người xuất gia hay tại gia mà là người dám sửa đổi những thói quen tật xấu của bản thân, dám thừa nhận lỗi lầm để làm mới lại chính mình; biết sám hối, hổ thẹn, quyết chí sửa sai, dám nhìn nhận sự thật, dám từ bỏ không tái phạm nữa, đó là người tu. Tu có nghĩa là sửa, là thay đổi và chuyển hóa, đổi xấu thành tốt, đổi ác thành thiện, đổi dở thành hay, nói chung là sửa đổi những thói quen có hại cho người và vật. Tu là cốt chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đây là nền tảng của sự tu hành và là bước đầu của người học Phật. Muốn cất nhà lầu ba tầng thì trước tiên chúng ta phải biết xây dựng nền móng nhân quả, chứ không thể cất ngay tầng thứ ba được.

Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là năng lực, là hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần từ thân-miệng-ý của mỗi người, lâu ngày trở thành thói quen. Thói quen đó có sức mạnh lôi cuốn, chi phối, sai sử lại con người, đi theo hai chiều hướng tốt hoặc xấu. Khi xưa chưa biết tu thì ta luôn làm các việc xấu ác, ý suy nghĩ rồi miệng nói năng và thân hành động làm khổ nhiều người, nay biết tu rồi thì cũng ngay nơi đó mà chuyển ba nghiệp thân-miệng-ý thành tốt lành. Người tu thì việc ác lánh xa không làm, việc lành nên cố gắng thực hiện, khi chưa biết tu thì thân có khi làm ác, miệng nói lời hung dữ, ý nghĩ xấu, ganh ghét và hận thù. Nay biết tu rồi thì thân tâm luôn hướng thượng, giúp đỡ và chia sẻ cho người khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Miệng nói lời hòa nhã, dịu dàng, dễ nghe, ý luôn nghĩ điều tốt lành, thánh thiện.

Cứ sau một lần thất bại và vấp ngã, người không có niềm tin về chính mình sẽ bị gục ngã trước, để rồi chấp nhận cuộc đời đen tối, mặc cho dòng đời cuốn trôi. Sau nhiều lần thất bại sẽ chôn vùi những con người quá yếu đuối, bạc nhược, hèn nhát, kém cỏi; ngược lại sẽ giúp cho những người có ý chí và nghị lực phi thường, thất bại với họ chỉ là thử thách. Đạo Phật không dạy chúng ta trốn tránh cuộc đời mà dạy chúng ta dũng cảm đối diện với cuộc đời, dùng trí tuệ từ bi để làm mới lại chính mình, vượt qua biển khổ sông mê nhằm góp phần phục vụ lợi ích cho hạnh phúc gia đình, xây dựng xã hội và thế giới hòa bình, an lạc lâu dài.

Người thật tâm muốn làm mới lại cuộc đời ngay nơi vấp ngã đó hãy can đảm đứng lên, vứt bỏ hết tất cả, giống như chú cá kia dám nhảy khỏi lưới để thóat thân; còn nhiều con cá khác vì không đủ khả năng thoát ra, đành cam chịu mắc lưới để chờ ngày làm thịt. Như người nghiện rượu nếu ngày nào không có, tay chân run lẩy bẩy không thể làm được việc gì, bắt buộc mỗi sáng phải đưa vô một hoặc hai xị mới có thể tỉnh táo trở lại, đó là chỉ nói sơ về tác hại của người ghiền rượu. Muốn bỏ những thói quen nghiện ngập, si mê cũng không khó khăn gì, chúng ta phải nhận thức được sự tác hại của nó, tin sâu nhân quả, nhân nghiện ngập, quả si mê và cuối cùng dẫn đến cướp của, giết người không gớm tay để thỏa mãn cơn ghiền của mình. Chúng ta phải quyết tâm dũng mãnh, vượt qua giai đoạn vật vã, khốn khổ, đa số người đời vì không chịu nỗi chỗ này nên đành chấp nhận sống trong nghiện ngập, đam mê si dại. Có nhiều người bỏ được thói quen xấu rồi, nhưng khi gặp bạn bè nói bóng, nói gió, “đàn ông không biết uống rượu là pê-đê”, nghe vậy tức quá nên để chứng minh mình không phải pê-đê họ tiếp tục uống rượu trở lại, rốt cuộc rồi chứng nào tật đó, vì ai cũng thích được khen hơn bị chê dù biết đó là lời khen lấy lòng. Cũng vậy, con người ai cũng thích cảm giác khoái lạc hơn là bị những cơn vật vã hành hạ khốn khổ.

Như người hút á phiện, chích xì ke chẳng hạn, nếu người hút chích liên tục từ hai lần trở lên sẽ bị ghiền và rất khó bỏ. Có hai loại cảm giác khoái lạc làm cho con người đam mê say đắm khó rời xa, đó là khoái lạc nam nữ và khoái lạc ma túy. Trong tình yêu lứa đôi, nhờ biết cách vun bồi cho nhau nên duy trì được hạnh phúc gia đình. Khoái lạc nam nữ đã giúp cho nhiều người sống có trách nhiệm và bổn phận hơn trong sự nghiệp phát triển, duy trì nòi giống nhân loại. Khoái lạc ma túy làm cho con người bị sa đọa trầm trọng, gây ra thảm họa cho loài người trong hiện tại và tương lai. Tác hại của nó hơn gấp trăm ngàn lần các thứ khác, ai dính vào vòng này coi như thân tàn ma dại, con người trở nên tàn ác vô lương tâm và sẵn sàng hành động dã man để có tiền thỏa mãn cơn nghiện.

Người nghiện ma túy trăm người chỉ bỏ được một là cùng, hiện tại đã đến hồi báo động cho thế giới loài người, cứ mỗi ngày có thêm một trăm người bị bệnh sida. Tệ nạn xã hội càng ngày gia tăng, đến nỗi nhà tù mọc lên như nấm, sự thiệt hại về con người và vật chất quá lớn do con nghiện gây ra không sao tính kể. Từ thế kỷ 21 trở về sau con người sẽ sống chung với bệnh hoạn, sống chung với ô nhiễm môi trường, sống chung với người nghiện ngập, sống chung với thiên tai, sống chung với nhiều người không có tình yêu thương chân thật, vì đạo đức suy đồi, nhân cách thấp kém, hiểu biết nông cạn. Chúng ta luôn bị lệ thuộc vào nhu cầu vật chất quá lớn nên tâm linh mai một, xã hội tha hóa, con người trở nên ác độc với nhau nhiều hơn vì không có tình yêu thương chân chính. Vì vậy, chúng ta đang sống trong thời đại ô nhiễm mà không si mê, nghiện ngập quả thật là điều rất khó, nhưng khi đã vướng vào rồi mà thoát ra được mới là người đáng khâm phục và tôn kính, như cá nhảy khỏi lưới. Hay quá! Hay quá!

MA TÚY VÀ SỰ TÁC HẠI CỦA NÓ.

Tại sao hút chích và mua bán xì ke ma túy không có trong giới cấm? Tuy không có trong giới cấm nhưng nó nằm trong giới thứ năm không được uống rượu và các chất gây say sưa, nghiện ngập. Thời Phật tại thế chắc chưa phát sinh tệ nạn ma túy, nên chúng ta không nghe Phật nói trong các bản kinh. Nói đến cảm giác khoái lạc của người hút chích xì ke thì không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ cho hết được; ngược lại, khi cơn ghiền đã đến, con nghiện sẽ không làm gì được, ngáp ngắn ngáp dài, trong người uể oải, dã dượi, vật vã, khó chịu tột cùng. Để làm giảm bớt và xoa dịu cơn vật vã, ta phải đánh thật mạnh vào bắp vế non hàng trăm cái mới tạm thời giảm bớt nồng độ vật vã. Nếu gia đình nào đã tìm nhiều cách để giúp con nghiện cai mà không được, thì chỉ còn cách duy nhất là gởi con nghiện vào các trung tâm và cho lập nghiệp lâu dài. Đây là giải pháp an tòan và hiệu quả nhất có thể thay đổi, chuyển hóa cuộc đời con nghiện; tạo công ăn việc làm tại chỗ, không cho con nghiện giao thiệp, tiếp xúc bên ngòai, đưa giáo lý nhân quả nghiệp báo, luân hồi tái sanh để giáo dục con nghiện ý thức được sự tác hại quá lớn trong hiện tại và hậu quả nhiều kiếp về sau.

Có một bà mẹ nọ nhà rất khá giả, vì quá thương con nên bà ta chiều chuộng con mình một cách thái quá, chúng muốn gì được nấy bà chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân. Nhờ có sắc đẹp mặn mà nên bà dễ làm các nhân tình lớn tuổi đắm đuối, say mê khó rời xa. Do đồng tiền có được không phải bằng mồ hôi nước mắt của mình tạo ra, nên bà tiêu xài hoang phí và chẳng cần quan tâm đến con cái. Hai đứa con của bà chẳng thèm làm ăn gì hết, chúng ỷ lại vì có mẹ nuôi nên tối ngày la cà các trà đình tửu điếm, cuối cùng vướng vào nghiệp ma túy. Bà ta giàu có và sống được nhờ vào sắc đẹp của mình nên để con muốn làm gì thì làm, chúng đòi hỏi nhu cầu gì bà đều đáp ứng đầy đủ. Nhưng phước báu con người có giới hạn, ăn không làm riết núi cũng mòn. Tiền cuỗm được của các tình nhân già bao nhiêu cũng không đáp ứng đủ cho chúng. Mẹ thì dùng sắc đẹp của mình để lấy tiền các lão già mê gái, con thì lại hút chích, đàn điếm.

Thật lòng mà nói, bà ta có vô số tình nhân lớn tuổi, nhưng cuối cùng tất cả đều  phải chia tay khi sự nghiệp của những người này không còn nữa. Mỗi một ngày bà ta đến một nhà hàng cao cấp và sang trọng, nay thì đi với người này, mai thì đi với người kia, bà thay tình như thay áo mỗi ngày. Con bà vì quen thói được chiều chuộng từ nhỏ, nên chúng đã hư hỏng và còn đam mê nghiện ngập khi tuổi đời còn quá trẻ, cuối cùng hai đứa được đưa vào trung tâm cai nghiện, vì quá thương con nên bà bằng mọi cách móc nối để đem thứ chết người đó vào trung tâm. Đứa con nhỏ vì phê quá liều nên bị chết, đứa con lớn thì bị nghiện nặng và bị sida cũng đang chờ thần chết rước đi, cuối cùng bà bị tán gia bại sản và phải ở nhà mướn. Giờ này tuy bà tròn trèm gần sáu mươi tuổi nhưng vẫn còn hương sắc mặn mà, vậy mà vẫn có người thương và thuê phòng trọ ở với bà ta, nếu chúng ta chỉ nhìn phía sau thì rất dễ lầm lẫn. Chúng tôi có thời gian đi ăn hôi với bà mỗi ngày nên hiểu rất rõ hoàn cảnh sống của bà. Đồng tiền làm ra không chân chánh và nuông chiều con quá mức là căn bệnh trầm kha của một số bà mẹ trong thời hiện đại, do đó nhiều gia đình phải tan nhà nát cửa. Thảo nào ông bà ta thường nói “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” là rất đúng, không sai.

Người thời xưa cho rằng á phiện là loại thuốc an thần giảm đau cực kì hiệu quả, làm cho cơ thể thông minh, sáng suốt lạ lùng, nó có tác dụng chữa bệnh rất cao. Vì thế, người giàu sang mới có tiền dùng nó, còn người dân bình thường không có khả năng với tới. Nó còn có tác dụng cầm máu nhanh chóng và giảm đau cực kỳ hiệu quả, chỉ để sử dụng trong ngành y học. Một người nữ đang mang thai sắp đến kỳ khai hoa nở nhụy bị cơn đau bụng hành hạ dữ dội không cách nào chịu nỗi, oằn oại rên la rất thảm thiết, vì quá đau chịu không nỗi nên cô ta có ý định nhảy xuống giếng tự tử. Chồng cô là người nghiện xì ke ma túy sợ cô chết, đành ngậm đắng nuốt cay chích cho cô một mũi, nhờ vậy khống chế được cơn đau và từ đó cô trở thành bạn chích với chồng. Thế là một thời gian sau, hai vợ chồng bị bắt vô trung tâm cai nghiện, chồng cô bị sida và qua đời sau thời gian ngắn, cô vì có con nhỏ nên được cho về; nhưng chứng nào tật nấy, vì không đủ sức vượt qua cơn ghiền nên cuộc đời cô chết chìm trong nghiện ngập, nhà cửa đều bán sạch hết và trở nên thân tàn ma dại. Đây là câu chuyện có thật xảy ra tại Quận Thủ Đức. Sau này cô ta phải mua phấn bán hoa và bị bệnh sida, cuối cùng từ giả cõi đời để lại đứa con thơ không nơi nương tựa. Vì vậy, người con Phật phải khéo thận trọng trong quan hệ giao tiếp, nên tránh xa bạn bè xấu ác, luôn thân cận học hỏi bậc hiền Thánh, nếu không được như vậy thà sống một mình còn hơn phải chịu chết chìm trong si mê, nghiện ngập.

Bồ tát là con người giác ngộ từng phần đang tiến bước trên con đường Phật quả. Bởi giác ngộ nên bồ tát ngừa từ nhân, không dám làm việc xấu ác; còn chúng sinh chờ đến quả khổ mới than trời trách đất, đổ thừa tại, bị, thì, là…, cuối cùng đành nhắm mắt xuôi tay để cho nghiệp xấu chi phối. Nhất là người bị nghiện xì ke khó lòng bỏ được vì nó đã ăn sâu vào tâm thức, người nào can đảm, dũng mãnh lắm mới bỏ được hẳn, không bị tái nghiện trở lại; còn không thì phải đam mê thứ khác thật sâu đậm mới có thể vượt qua nỗi. Chính bản thân chúng tôi bỏ được cũng chỉ bằng cách đó mà thôi, ngọai trừ trường hợp đặc biệt do Bồ tát thị hiện đi vào đời cứu độ chúng sanh, bằng không thì phải chấp nhận sống trong nghiện ngập, si mê.

Nhiều cha mẹ vì quá thương con, sợ con bị hành hạ, dằn vặt chịu không nỗi nên vô tình giết chết con bằng cách tiếp tế chi viện mỗi ngày. Thương con kiểu đó vô tình hại thêm, làm cho con mình thêm bệnh ỷ lại nên không chịu cố gắng kiên trì vượt qua. Con chịu si mê, chết chìm trong nghiện ngập, mẹ đồng lõa tiếp thêm tội lỗi và cuối cùng hai mẹ con cùng đi chung một xuồng sa đọa. Gia tài, sự nghiệp mấy chục năm chắt chiu làm việc tích cóp bấy lâu đều tan theo mây khói mà vẫn không cứu được con mình. Chúng tôi có biết một người nghiện xì ke lớn hơn tôi khỏang ba bốn tuổi, bị nghiện từ tuổi thiếu niên vì là cậu út con một gia đình giàu có tiếng tăm; biết con mình chơi cùng với nhiều người bất hảo, sợ ảnh hưởng đến uy danh và thanh thế gia đình nên cha mẹ đã bắt buộc anh không được ra khỏi nhà và sẵn sàng cung cấp đầy đủ nhu cầu cần thiết.

Đây là giải pháp tạm an tòan thuộc gia đình có nhiều quyền lực và giàu có trong xã hội. Phương pháp này tạm thời giúp cho người nghiện không rơi vào tình trạng cướp của giết người, không gây xáo trộn về an sinh xã hội, quản lý con nghiện chặt chẽ, nhờ vậy giảm bớt tệ nạn xã hội. Cách giải quyết trên chỉ tạm thời giúp cho con nghiện không phạm pháp trong hiện đời và kéo dài đời sống thêm năm mười năm nữa là cùng, nhưng sẽ để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho nhiều đời về sau theo luật nhân quả luân hồi của đạo Phật. Vì sao? Chúng ta không hóa giải nghiệp nhân trong hiện tại, để mình bị chết chìm trong đam mê, tội lỗi, coi như bao nhiêu phước báo trong hiện đời con nghiện đã hưởng hết và còn mang theo thói quen nghiện ngập, si mê.

Theo luật nhân quả nghiệp báo, nhân si mê nghiện ngập trong hiện tại nếu không hóa giải được thì vô số kiếp về sau phải bị đọa lạc vào chỗ khốn cùng; như con thiêu thân lao vào lửa, như bướm lao đèn tự thiêu tự đốt, hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sinh đều do si nghiệp. Khi được làm người trở lại thì bị thân thể xấu xí, hôn ám, si muội, không làm chủ được bản thân, dễ dàng rơi vào chỗ tối tăm, mờ mịt; vì không còn phước nên hiện đời không ai giúp đỡ, đành lao vào việc trộm cướp để có tiền hút chích, nếu không may bị chủ nhân phát hiện, vì sợ quá nên bất đắc dĩ giết luôn gia chủ để bịt đầu mối, cuối cùng tăng thêm tội nữa là tội giết người. Thế là quả xấu chồng quả xấu, người này sẽ không còn cơ hội làm mới lại chính mình, nên đời này kiếp nọ sống trong mù mịt, tối tăm, khó mà có cơ hội vươn lên làm lại cuộc đời và mãi mãi sẽ là người từ tối vào tối. Nên trong bài kệ sám hối của vua Trần Thái Tông nói về nghiệp ngu si là:

Căn tánh đần độn,
Ý thức tối tăm,
Chẳng hiểu tôn ti,
Không phân thiện ác.
Chặt cây hại mạng,
Giết gấu gãy tay,
Mắng Phật chuốc ương ,
Phun trời ướt mặt.
Quên ơn quên đức,
Bội nghĩa bội nhân,
Không tỉnh không xét,
Đều do si nghiệp.
Những tội như thế,
Rất nặng rất sâu,
Đến lúc mạng chung,
Rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp,
Mới được thọ sanh,
Dù được thọ sanh,
Lại mắc ngu báo.
Nếu không sám hối,
Đâu được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài,
Thảy đều sám hối.

     Nếu ai đã lỡ vướng vào nghiệp tội si mê này rồi thì khó có khả năng được làm người trở lại. Nếu được làm người thì làm người thấp kém, bần cùng và dễ dàng bị thói quen đam mê, nghiện ngập cuốn hút. Do hết phước nên sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại nghiện ngập nữa nên phải trộm cướp, cuối cùng rơi vào hố sâu tội lỗi như người bị mắc dưới bùn không chân, càng nhích càng lún sâu, đành chịu chết dần chết mòn trong đau khổ lầm mê; cứ thế tội chồng tội để rồi mãi sống trong tối tăm, mờ mịt.

Cha mẹ con nghiện muốn giúp con mình vượt qua được những thói quen mê muội này, thường con nghiện không đủ sức tự cai một mình, nên cần phải nhờ nhiều người thân hỗ trợ. Gia đình cần phải cố gắng kiên trì, bền chí chịu đựng để giúp con nghiện cai tại nhà như sau: Thứ nhất, con nghiện phải chấp nhận cách ly hoàn toàn tuyệt đối, không cho quan hệ và giao tiếp với bạn bè bên ngoài. Đây là điều cần yếu quan trọng đầu tiên, nếu để con nghiện tự do đi lại, con nghiện dễ dàng bị cám dỗ, lôi cuốn trở lại. Thứ hai, hướng dẫn con nghiện phát nguyện sám hối hứa chừa bỏ, không tái phạm và thường xuyên suy tư quán chiếu thấy được tác hại của nó làm hao tài, tốn của cho người thân, có thể dẫn đến tán gia bại sản, vợ con khốn khổ. Nếu gia đình không có khả năng đáp ứng nhu cầu, con nghiện có thể lường gạt hoặc trộm cướp để có tiền hút chích, không khéo dẫn đến tình trạng cướp của giết người không thương tiếc. Đã dính vào nghiệp này rồi thì tiền mất tật mang, mê muội ngu si, vô số kiếp sống trong đau khổ lầm mê, không có ngày thoát ra.  

Đa số người nghiện xì ke ma túy đều là con nhà giàu, từ chỗ cha mẹ thiếu quan tâm, chỉ biết thương con, chiều con, muốn gì được nấy, đòi gì được đó, vô tình giết chết con mình. Cha mẹ do chạy theo nhu cầu sự sống, mải mê làm giàu, bảo vệ công danh sự nghiệp sợ không bằng người, cứ thế mỗi khi con cần gì chẳng cần quan tâm đến, cứ chu cấp thỏa đáng theo nhu cầu của con mà chẳng cần tìm hiểu. Như bản thân chúng tôi lúc còn chích xì ke, trong thời gian ở tù vì tội móc ngoặc hối lộ, do khôn khéo luồn lách giỏi nên được làm tù trưởng tự do đi lại bình thường. Chính vì thế, càng ở lâu trong tù càng tạo thêm nhiều tội, chúng tôi móc nối các phạm nhân nghiện ma túy mua một bán mười, đem vô cho họ chích trong trại giam tạo thành đường dây lớn mạnh. Đời sống của tôi lúc đó như ông hòang con được bao bọc che chở của nhiều thế lực, nên hiên ngang móc nối làm nhiều phi vụ phi pháp tung hòanh ngang dọc một thời trong tù. Sau này khi đi tu rồi, ngồi suy gẫm lại mới thấy tội lỗi vô cùng và sự tác hại lớn lao của nó. Người có địa vị quyền lực càng cao nếu không biết tu sẽ gây ra vô số tội lỗi, một xã hội nếu người lãnh đạo ít tham nhũng và ham sắc đẹp thì đất nước đó mau tiến bộ và giảm nhiều tệ nạn xã hội.

PHẬT PHÁP ĐỘ VUA A DỤC HOÀN THIỆN    

Cách thời Phật hiện tiền khoảng một 100 năm có vua A-dục, do có tài nên ông bình thiên hạ dễ dàng, nhưng người ta lại gọi ông là ông vua độc ác. Khi sắp lên ngôi vua, ông đã giết gần hết số anh em cùng cha khác mẹ, giết vô số quan lại và hàng trăm ngàn cung phi mỹ nữ. Mỗi ngày ông thường đem nhiều phạm nhân ra hành hình, lấy thú vui giết người làm niềm vui chính mình. Ông giết người không gớm tay, riết rồi không còn phạm nhân để giết nữa, một số quan cận thần thấy thế mới tìm cách khuyên nhủ nhà vua, tìm một truyền nhân giết người thay thế cho vua để vua bớt mang tiếng bất nhân, bất nghĩa. Điều kiện duy nhất là làm sao tìm được một người có tâm giết hại giống như nhà vua. Lệnh được truyền đi gần một tháng mới tìm được người như ý muốn, tên này là một thợ săn khét tiếng, không những săn thú mà còn hành hung người một cách tàn nhẫn. Để chứng tỏ mình là kẻ giết hại không gớm tay, tên thợ săn liền giết cha mẹ hắn để chứng minh cho hành động của mình. Sau khi đến gặp nhà vua, hắn đưa ra điều kiện hễ ai vào đó thì không được ra dù là vua.

Thế là địa ngục trần gian được lập ra dưới sự cai quản của hắn, bên ngoài trang trí giống như hoa viên du lịch để làm mờ mắt thiên hạ. Một hôm, có thầy Tỳ kheo đi hóa duyên vô tình lạc vào địa ngục trần gian, bỗng một giọng nói đanh thép vang lên, “này gã ăn mày kia, ngươi đã lạc vào địa ngục trần gian, hễ ai đặt chân vào đây coi như tan thây mất mạng; này gã đầu trọc kia, ngươi đã tận cùng bằng số rồi nên mới lạc vào đây, số mi thật xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ ta ban tội chết cho. Ha! Ha!” Biết khó bề thoát thân, thầy Tỳ kheo liền tìm kế hoãn binh nên nói với tên sát nhân rằng “tôi là người tu hành, tôi không sợ chết đâu, chỉ vì chưa chứng được đạo quả bồ đề nên ông hãy thương tình gia hạn cho tôi một tháng”. Có lẽ nhờ sự gia hộ của chư Phật, tên sát nhân đã kỳ hạn cho thầy Tỳ kheo 7 ngày. Đây là cơ hội tốt nhất để thầy Tỳ kheo cố gắng tu tập, nhưng thời gian 7 ngày quá ngắn ngủi, đối diện với cái chết sắp kề cận bên mình, ấy thế mà đã 6 ngày trôi qua, thầy Tỳ kheo vẫn không có một tia sáng giác ngộ nào hết. Buổi chiều ngày thứ 6, một phụ nữ được đưa vào với tội danh ngoại tình, lăng chạ với người khác nên bị hành hình rất dã man rồi cuối cùng chết liền tại chỗ. Nhìn thấy hình ảnh thảm thương đó, thầy Tỳ kheo nghĩ đến thân phận con người rất mỏng manh tạm bợ, mạng người không có giá trị gì hết, thấy đó rồi mất đó. Thầy Tỳ kheo chợt nhận ra đạo lý vô thường ngay nơi thân này không có gì là thường còn vĩnh viễn, và cứ như thế thầy Tỳ kheo quán sát một cách rõ ràng tường tận, nhờ miên mật tinh cần thầy đã chứng quả A-la-hán trong đêm cuối cùng.

Tờ mờ sáng, tên sát nhân đã vào với vẻ mặt lạnh lùng, giọng nói oang oang nghe đến rợn người “giờ chết đã đến, ngươi còn ân hận gì không?” Thầy Tỳ kheo thản nhiên trả lời “hôm nay là ngày tốt, ông muốn giết ta bằng cách nào cũng được”. Tiếng cười vang lên thật quái đản, chúng ném thầy Tỳ kheo vào cái nồi đồng thật lớn, bên ngoài chất thật nhiều củi rồi châm dầu đốt lửa, lửa đã cháy đỏ hừng hực thật lâu khiến cho nước trong nồi sôi lên sùng sục, kéo dài khoảng gần hai tiếng đồng hồ, sức nóng đã làm cho tên sát nhân phải đứng xa ra. Tên sát nhân yên trí rằng thầy Tỳ kheo đã chết nên cho người mở nắp nồi ra xem. Không ngờ ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến vị Tỳ kheo đang ngồi kiết già, sắc mặt người trong sáng lạ thường, tỏa ra một ánh hào quang diệu kỳ làm tên sát nhân và mọi người hoảng hồn sợ hãi, liền tấu trình lên cho vua A-dục biết.

Vua A-dục nhìn thấy tận mắt những đều chưa từng thấy từ trước đến nay. Cuộc đời của ngài đã từng đi chinh chiến khắp nơi đánh Đông dẹp Tây, tung hoành các nước để thỏa mộng ước bình thiên hạ, không một ai có thể qua khỏi lưỡi gươm của ngài, vậy mà thầy Tỳ kheo này vẫn sừng sững hiên ngang ngồi trong nồi đồng với nước sôi sùng sục. Chứng kiến tận mắt hình ảnh người tu hành có diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngài bất giác rơi lệ, quỳ xuống xin thầy Tỳ kheo tha thứ tội lỗi, ăn năn sám hối hứa chừa bỏ những điều sai trái từ trước tới nay do mình gây ra. Sau đó, thầy Tỳ kheo giảng pháp cho nhà vua nghe về đạo lý làm người và nhân quả nghiệp báo. Vua liền thức tỉnh phát nguyện quy y Tam Bảo, hộ trì chánh pháp, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, tin theo lời Phật dạy giữ gìn năm điều đạo đức:

Thứ nhất không được giết người và hạn chế tối đa giết hại các loài vật. Hai là không gian tham trộm cướp của người một cách bất chính, trộm là lấy lén, cướp là công khai lấy, giành giựt lấy. Ba là không được tà dâm, Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng không được quan hệ với người khác ngoài vợ chồng chính thức, ăn ở với người cùng huyết thống gọi là loạn luân, quan hệ giữa người và thú gọi là cuồng dâm, tự mình khoái lạc gọi là thủ dâm, quan hệ với người đồng phái gọi là đồng tính luyến ái hay còn gọi là pê-đê, còn quan hệ nếu xảy ra giữa người trưởng thành và trẻ chưa tới tuổi vị thành niên gọi là bạo dâm. Thứ tư là không được nói dối để hại người. Thứ năm là không uống rượu và dùng những chất gây say có hại cho sức khỏe và tinh thần.

Nhà vua nghe xong phát nguyện đời đời kiếp kiếp hộ trì Tam bảo giúp dân chúng an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy. Một vị vua tàn bạo giết người không gớm tay nhưng nhờ gặp giáo pháp của Như Lai thế tôn, bậc chánh đẳng chánh giác, vua A-dục đã được thầy Tỳ kheo dùng thân giáo hóa để trở thành một người Phật tử thuần thành, chuyện này từ xưa đến nay thật hiếm có. Chỉ có chánh pháp của Phật mới có công năng trị lành tất cả bệnh, nếu ai biết hướng tâm quay về, dù người đó tàn bạo, độc ác tới đâu, cụ thể như vua A-dục, một khi đã thấm nhuần giáo lý Phật đà rồi thì có thể trở thành con người hiền lương đạo đức và không làm tổn hại cho ai. Ban đầu vua A-dục là một vị vua khét tiếng tàn bạo và độc ác không ai bằng, lấy sự giết hại làm niềm vui chính mình;  sau nhờ sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của Phật pháp, vua A-dục trở thành vị hoàng đế anh minh sáng suốt, hết lòng thương yêu dân chúng như con đẻ của mình.

Ngày hôm nay, Phật giáo được lưu truyền rộng khắp là nhờ một phần công lao của ngài, một người đã giác ngộ và phát nguyện hộ trì Tam Bảo. Nếu không phải là giáo pháp của Như Lai thì làm sao có thể chuyển hóa được vị hôn quân mê muội này. Giáo pháp của đức Phật không thể nghĩ bàn, không những thuyết phục bằng lời nói mà còn dùng thân giáo của chính mình để đối tượng được cảm hóa, tâm phục khẩu phục, không còn lý lẽ nào để nghi ngờ nữa. Nhờ được chuyển hóa mà vua A-dục trở nên người có công rất lớn trong việc phát triển và mở mang đạo lý làm người truyền rộng ra các nước phương xa, cụ thể là con của ngài xuất gia đầu Phật và đã đến đất nước Tích Lan để truyền bá Phật pháp.

VUA A DỤC DÙNG PHƯƠNG TIỆN GIÁO HÓA

Từ khi gặp được Phật pháp, vua A-dục mỗi khi ra ngoài đường gặp bất cứ vị Tỳ kheo nào cũng đều bước xuống xe đảnh lễ và chào hỏi rất tôn kính, làm cho một vị quan đại thần tỏ vẻ không hài lòng và bất bình. Vị quan này quen theo lối phân biệt giai cấp cho vua là trên hết không ai bằng. Người thời xưa quan niệm trời sinh ra vạn vật, nên các vị vua tự xưng là thiên tử, tức con trời. Vua thay mặt trời trị vì thiên hạ nên vua là cao cả, là quí báu, thậm chí nếu thần dân thiên hạ lỡ đặt tên con mình đồng tên với gia tộc của vua đều bị mang tội khi quân. Do đó, quyền lực của những ông vua thời phong kiến rất độc tôn, độc tài, muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, tùy ý giết người như vua A-dục thời kỳ chưa gặp Phật pháp. Phật pháp có công năng gì mà chuyển hóa được vua A-dục, một con người bạo ác trở thành vị vua anh minh sáng suốt vì lợi ích nhân loại và lợi ích muôn loài?

Trở lại câu chuyện vị quan đại thần không chấp nhận các vị Tỳ kheo là người đáng tôn kính, đảnh lễ, thưa hỏi, cúng dường. Người xưa quan niệm rằng vua là trên hết, vua là con trời, ai gặp vua thì phải đảnh lễ cung kính, nếu không thì mang tội khi quân sẽ bị trị tội tùy theo mức độ nặng nhẹ. Nếu là ngày trước, vua A-dục chưa biết Phật pháp thì có lẽ quan đại thần ấy đã mồ xanh cỏ rồi, làm gì có thời gian để giải bày. Do vậy, vua A-dục vẫn im lặng không thèm trả lời.     Để chứng minh cho sự hồi đầu của mình sau khi gặp Phật pháp biết lấy tình thương bao dung mà tha thứ và độ lượng, nhà vua đã phương tiện giáo hóa quan đại thần bằng cách ra lệnh cho tất cả quan văn võ trong triều mỗi người đều đem bán đầu súc vật, riêng vị quan đại thần phải bán đầu người. Đầu súc vật các quan đều bán được hết, riêng đầu người của quan đại thần là không bán được. Vua A-dục mới hỏi cắc cớ, tại sao đầu người lại không bán được, mà đầu súc vật lại bán được, vậy đầu người hèn hạ nhất trên đời hay sao? Vua lại hỏi thêm, chỉ cái đầu này hèn hạ hay các cái đầu khác cũng vậy? Viên đại thần ấp úng, không trả lời được nên cuối cùng đành im lặng, chờ sự chỉ giáo của vua A-dục. Vua nói “ta không nhờ Phật pháp thì đầu ngươi cũng chẳng kém chi đầu này, Phật pháp không thể nghĩ bàn, ngươi lấy tâm phàm tục đo lường Thánh trí, giống như người mù sờ voi, ngươi cố ý muốn ngăn cản ta, đó là điều tốt theo cách nhìn của ngươi vì ngươi trung thành với ta, đó là điều đáng khen ngợi, ta không phủ nhận điều ấy; nhưng ngươi muốn ngăn cản ta đảnh lễ các thầy Tỳ kheo là do ngươi quá cống cao ngã mạn, thấy mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là cao cả. Nếu mình là cao cả, tại sao đầu người không bán được mà đầu súc vật lại bán được? Con người dù hèn hạ đến đâu, một khi biết tu nhân tích đức làm mới lại chính mình thì ai thấy cũng tôn trọng, quý kính. Các thầy Tỳ kheo dám bỏ hết những gì đang có để sống đời tỉnh thức rày đây mai đó, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nhà ngươi có làm được như thế không, mà dám khinh khi coi thường? Đó là tâm niệm của ngươi quá nhỏ nhoi và ích kỷ. Trong cuộc đời này nếu mình làm không được thì nên tùy hỷ với người làm được, để được thêm tình yêu thương và hiểu biết. Tùy hỷ với người có nhân cách phi thường thì chúng ta sẽ có thêm nhận thức đúng đắn về đạo đức và giá trị chân thật trong cuộc đời. Ta nay nhờ gặp Phật pháp, nên làm mới lại cuộc đời bằng tất cả tấm lòng chí thành, chí kính. Như vậy, ta có lầm lỗi chỗ nào mà ngươi dám ngăn cản ta, như thế có phạm tội khi quân hay không?” Nghe được những lời nói chân tình của nhà vua, vừa là chỉ dạy, vừa là khuyên nhủ, vị quan đại thần thức tỉnh nhận ra lỗi lầm của mình, ông cúi đầu lạy tạ sám hối, nguyện từ nay về sau không còn nói những lời vô lễ ấy nữa. Một con người vô đạo như vua A-dục nếu không gặp Phật pháp thì làm gì có được những lời nói chân thành và hành động cao thượng như trên.

Phật pháp có công năng chuyển hóa tối tăm, u mê thành trong sáng hiện thực, chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Chỉ có Phật pháp mới phù hợp với lòng người, con người được quyền làm chủ bản thân, họa phúc đều do mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Phật pháp rất thực tế và nhiệm mầu, ai phát tâm tu theo sẽ tự tin chính mình không còn bị lệ thuộc và ỷ lại vào bên ngoài, dám làm, dám chịu trách nhiệm hoàn toàn trước những suy nghĩ, nói năng và hành động của mình, không đổ thừa cho ai hết. Nhờ tin sâu nhân quả, chúng ta không dám làm điều xấu ác, cái gì hại mình và người thì tìm cách chuyển hóa, nếu đã lỡ lầm gây tạo tội lỗi thì cố gắng sám hối tìm cách từ bỏ, không lặp lại lỗi lầm xưa. Dám chịu trách nhiệm đối với sự sai trái của mình, hứa nguyện không tái phạm để mình và tha nhân ngày càng gắn bó nhau hơn trong tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

KINH NGHIỆM NGỪƠI XƯA

Ca dao Việt Nam có câu:

       Cá không ăn muối cá ươn,
       Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.

Thông thường, các bậc cổ nhân là những người đi trước lớn tuổi đã từng trải nghiệm trong cuộc sống, đã thắm thía cuộc đời nhiều nỗi đắng cay, nên các ngài thường lấy kinh nghiệm thực tiễn để hướng dẫn cho người sau có những kinh nghiệm quý báu dù thời thế có thể đổi thay, nhưng những lời dạy ấy vẫn không bao giờ bị mai một. Có một bầy rùa đang sống trong một hang động hoang dã xa xôi, nơi đây ít người lui tới, cách đó không xa có một đồng cỏ xanh tươi bao bọc chung quanh hồ nước trong vắt, rất thích hợp với đời sống loài rùa. Vậy cớ sao bầy rùa kia lại ở nơi hoang dã để phải chịu cảnh sống cơ cực bần hàn? Chính vì vậy, các rùa con hay thắc mắc với mẹ chúng, “tại sao chúng con không được sống nơi trù phú, phì nhiêu để hưởng thụ các món ngon vật lạ, mà phải sống cơ cực nơi hang sâu núi thẳm vậy mẹ?”. “Các con không biết đó chứ! Tuy nơi đây cực khổ thiệt nhưng đảm bảo được tính mạng an toàn cho các con. Chỗ có nhiều lợi dưỡng là nơi giăng bẫy của một số người ác tâm, họ luôn rình rập chúng ta, sẵn sàng bắt lấy chúng ta để làm thịt”.

Mặc dù được nghe rùa mẹ giải thích cặn kẽ nhưng đám rùa con vẫn còn háo hức, thèm thuồng được một chuyến chu du miền hoa thơm cỏ lạ. Chúng cùng to nhỏ với nhau, “chắc là không có người ác tâm như mẹ mình nói đâu”. Một con trong bọn nói, “mình lớn cả rồi, lại thông minh lanh lợi, nếu lỡ gặp người ác tâm bọn mình liền lặn ngay xuống đáy hồ, họ làm sao bắt được?” Cả bọn rùa reo lên “hay quá! hay quá! Sợ nguy hiểm mà bỏ qua thú vui trước mắt thật là uổng phí quá chừng! Chúng ta phải ra đấy ngắm cảnh xem hoa để tận hưởng khoái lạc cuộc đời, há chi phải tự giam cầm nơi hang cùng hiểm hóc và nhỏ hẹp này”. Trong lòng nghĩ vậy nhưng chúng vẫn còn lo sợ. Do ham muốn và thèm khát thôi thúc, cả bầy rùa đồng quyết định ra hồ chơi một chuyến cho biết và cuộc phiêu lưu bắt đầu. Chúng âm thầm xuống khe núi, lặng lẽ bò đến bờ hồ, lòng vô cùng phấn khởi và thích thú trong chuyến du hí đầu tiên. Nhớ lời rùa mẹ dặn, chúng cảnh giác coi có sự cố gì xảy ra không, nhưng nhìn quanh, nhìn quẩn, chẳng thấy có dấu hiệu gì là đáng nghi ngờ và nguy hiểm, nên chúng không còn lo sợ nữa, vô tư đùa nghịch với nhau không cần cảnh giác. Chúng tự nhủ thầm tiếc bấy lâu nay bị giam hãm nơi nước độc rừng sâu, bỏ phí bao tháng ngày vui thú đầy khoái lạc hấp dẫn này.

Tưởng chừng như cuộc vui được kéo dài trọn vẹn, nào ngờ đâu giông bão đang kéo đến mà chúng vẫn không hay biết gì. Bất thình lình, từ trên không trung, một tấm lưới phủ trùm trên đầu chúng chụp xuống, lũ rùa cố gắng hết sức bò thật nhanh nhưng không còn kịp nữa, tấm lưới đã tóm gọn tất cả! Chỉ có một con trong bọn nhờ tinh mắt, nhanh chân nên đã trốn thoát về được tới nhà. Rùa mẹ biết chuyện không may đã xảy ra khi thấy rùa cả trở về một mình, liền hỏi “lũ em con đâu rồi sao không thấy, chắc tụi con lén ra hồ chơi phải không? Mẹ đã bảo rồi mà, các con chẳng chịu nghe”. Rùa anh buồn bã nói với rùa mẹ, “con nhớ lời mẹ dặn, cảnh giác trước mọi tình huống xảy ra nên con đã thoát được lưới tử thần của những người ác tâm, còn các em con do mải mê vui đùa hưởng lạc thú nên đã bị bắt hết cả rồi”. Rùa mẹ nghe nói liền khóc rống lên, “con ơi là con. Mẹ đã bảo rồi mà, các con không chịu nghe nên mới xảy ra chuyện đáng tiếc như thế này. Xưa nay, ông tổ nhà rùa chúng ta đã từng khuyên nhủ con cháu phải nên sống trong rừng sâu núi thẳm mà tu thân tích đức, đừng vì ham chỗ đẹp đẽ cao sang quyền quý mà phải chuốc họa vào thân. Các con còn quá nhỏ, ăn chưa no, lo chưa tới, không chịu nghe lời mẹ dặn nên đã tự giết mình khi tuổi đời còn non trẻ”.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đã cho chúng ta một bài học sống ở đời, con người vì quá đam mê lạc thú trần gian nên bỏ ngoài tai những lời chỉ dạy của người xưa đã qua thời gian trải nghiệm cuộc sống. Những bậc hiền nhân, những người đi trước từng có nhiều kinh nghiệm trong trường đời danh lợi và đã đứng lên từ những vấp ngã để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Do ỷ tài cậy sức, học cao hiểu rộng, một số người xem thường lời dạy cổ nhân và nghĩ rằng thánh nhân thời xưa lạc hậu, nên họ nói “tuổi trẻ thời nay khôn hơn người xưa nhiều”, nhưng họ đã quên mất một điều, người xưa nhờ có tu tập, biết quán chiếu và xem xét khi muốn làm việc gì. Người trí khi nghe lời dạy thánh nhân, biết được tai hại đam mê, hưởng thụ quá đáng nên tránh được những sai lầm đáng tiếc; còn chúng ta vì quá mê muội và tự mãn trong sự hiểu biết của mình, chẳng thèm lắng nghe những lời chỉ dạy của người xưa, nên mới bị mang họa vào thân. Vì thế, cổ nhân từng răn nhắc chúng ta “không thầy đố mày làm nên”, chúng ta quá coi thường lời dạy người xưa, không thèm học hỏi, lắng nghe, ỷ lại tài năng và sức lực của mình. Những lời chỉ dạy bổ ích của bậc trưởng thượng đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương chân thật giúp chúng ta không rơi vào hố sâu tội lỗi. Chúng ta đã biết, sự sống trên thế gian này muốn tồn tại phải tương tàn tương sát lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đó là nói sự sống của loài súc sanh; còn con người thì sao? Con người nhờ có trí khôn và sự hiểu biết nên có thể nhận định, suy xét, tìm hiểu đúng sai, nhưng một khi con người đã làm ác rồi thì không ai bằng.

Bởi vậy, người xưa do kinh nghiệm một đời đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vở và thực tiễn, nên các ngài lúc nào cũng thương tưởng chúng ta, đắng môi, mỏi miệng để truyền đạt cho nhân thế những lời dạy quý báu, bổ ích; nhưng chúng ta không chịu nghe, đến khi gặp nạn rồi đành chịu chết chìm trong tội lỗi, có sám hối ăn năn cũng không kịp. Lũ rùa kia không nghe lời dạy của mẹ, cả đàn ngốc nghếch, ngông nghênh để tự làm hại mình, như chú bé con vì ham chút mật ngọt trên dao bén mà phải chịu họa đứt lưỡi. Chú rùa cả luôn nhớ lời mẹ dạy và lúc nào cũng cảnh giác cao độ mà đã thoát khỏi lưới tử thần trong đường tơ kẽ tóc. Nhiều người tự cho mình có đủ khả năng, ngang dọc tung hoành trong thiên hạ, đến khi mang họa vào thân mới thấy lời dạy cổ nhân thật chí lý, có ăn năn hối hận cũng đã muộn màng. Chúng ta thường quên mất một điều, bậc thánh nhân, người hiền đức, các ngài đã từng trải qua bao gian nan trắc trở, nhờ đó mà kinh nghiệm sống thường rất chừng mực, sâu sắc. Thậm chí có những điều ta chưa biết nhưng các ngài đã biết bằng kinh nghiệm của chính mình, để chỉ cho chúng ta biết được điều hay lẽ phải, tránh được tai nạn trong đời. Ấy thế mà có người chẳng chịu nghe, ngược lại còn phê phán người xưa sao quá lạc hậu.

Ngày nay, trên đà tiến bộ của văn minh khoa học, vật chất đã góp phần giúp cho con người cải thiện đời sống ngày càng tốt đẹp hơn, nhưng lại kéo theo nhiều tệ nạn xã hội do nhu cầu hưởng thụ quá mức, dẫn đến tình trạng cướp bóc, giết hại lẫn nhau, bất chấp luân thường đạo lý làm người. Người sau do tiếp thu nền văn minh vật chất hiện đại nên đa phần tiến bộ hơn người xưa, do đó sanh ra ỷ tài cậy sức, tự cho mình là thầy thiên hạ, chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ, thiếu kinh nghiệm tu tập, cho rằng mình thông minh lanh lợi, sinh tâm cống cao ngã mạn; ai tán thán, ngợi khen, nịnh hót, tâng bốc thì hoan hỷ; ai thành tâm khuyên nhủ, góp ý thì cho rằng người đó là bần cố nông dốt nát; thường hay bảo thủ, không lắng nghe ý kiến người khác, chỉ biết làm theo ý mình một cách mù quáng, nói và làm trái ngược nhau. Người ở xa không biết cho rằng người đó là thánh sống, nhưng khi có dịp gần gũi thân cận mới thấy sự thật quá phũ phàng.

Nhiều người hiểu biết sai lầm, tưởng ai lý luận giỏi là người đắc đạo, hiểu như vậy vô tình phỉ báng Phật pháp. Lý luận giỏi chưa hẳn là người đạt đạo, nói và làm tương ưng mới thật là người đạt đạo. Đạo không nằm trong ngôn ngữ lời nói mà đạo thể hiện nơi hành động thực tế, nói và làm không trái ngược nhau, nói được phải làm được, không thể nói việc trên trời mà làm việc dưới đất. Lúc nào cũng muốn thay đổi thiên hạ mà không tự thay đổi chính mình. Muốn thiên hạ theo mình mà mình không tự làm tốt, biết khuyên mọi người hãy sống với thực tế mà mình lại vu vơ, huyền hoặc. Mình sống bằng lý luận môi mép mà lại khuyên mọi người sống chân thật, thực là lời nói việc làm trái ngược nhau, nói một đường làm một nẻo.

    Trong nhà Phật thường nói “mình không biết lội mà muốn cứu người chết đuối thì thật vô lý”. Vậy mà có một số người chẳng biết lội lại thích cứu người, đúng là mâu thuẫn cuộc đời. Hiểu biết và thực hành khác xa một trời một vực. Nhiều người giỏi nghiên cứu nhưng không có khả năng thực hành, chỉ nghiên cứu suông, nói suông. Thực tế đã cho chúng ta thấy rất nhiều nhà lãnh đạo giỏi không có trình độ chuyên môn cao, nhưng họ biết thích nghi nhu cầu cuộc sống, nên đa phần đều dễ thành công, đem lại lợi ích thiết thực đến cho nhiều người;  còn những nhà nghiên cứu suông nhờ có biện tài ngôn ngữ và có phước duyên lợi khẩu, nên dễ thuyết phục mọi người tin theo, nhưng thực tế lại rất phũ phàng, vì lời nói việc làm trái ngược nhau. Cho nên, học kinh nghiệm của người xưa thật quý báu vô cùng. Tuy các ngài nói ít, nhưng lời nói đó không thể mai một theo thời gian, vì các ngài biết cân nhắc tuỳ thời tuỳ duyên, biết nương theo phong tục tập quán của xã hội để làm lợi ích cho nhân loại. Do sự phát triển quá nhanh chóng, con người cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất nên coi thường lời dạy của người xưa. Có người tuy không bị vật chất cám dỗ nhưng lại bị danh vọng trói buộc.

Chúng tôi may mắn gặp được Phật pháp, nhờ có môi trường tốt nên chúng tôi cũng đã từng bước vượt qua nhưng không phải dễ dàng, nếu tự mãn cho là đủ thì vẫn bị thói quen xấu chi phối. Cái gì đã trở thành thói quen thâm căn cố đế, nếu muốn thay đổi chúng ta phải trả một giá rất đắc như người chết đi sống lại thì mới thật sự chuyển hóa chúng. Nếu đơn giản và dễ dàng thì người ta đâu cần phải tầm sư học đạo, đâu phải khổ công rèn luyện tinh cần miên mật mới có thể vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Người càng học cao hiểu rộng thì sự chấp trước càng lớn nếu không biết tu tập và buông xả. Cho nên, nhà Phật không đặt nặng vấn đề văn hay chữ giỏi hoặc biện tài lưu loát. Ngày xưa Tổ Huệ Năng không biết một chữ, khi vào chùa chỉ biết giã gạo nấu cơm làm công quả, sau này trở thành vị Tổ thứ sáu Thiền sử Trung Hoa để lại nhục thân cho đến bây giờ. Đó là một sự thật không thể chối cãi được. Tại miền Bắc đất nước Việt Nam chúng ta hiện nay có đến năm nhục thân của các vị Thiền sư để lại là do nhờ công năng tu tập.

Người tu chứng không phải do học cao hiểu rộng mà được, mà chỉ thấy rõ thân này là một tổ hợp vật chất do nhiều yếu tố thành hình, không có cái ngã thực thể cố định; biết được như thế, chúng ta làm tất cả việc mà không thấy mình làm. Người học cao hiểu rộng nếu không có sự tu tập thì sự chấp ngã càng lớn, do đó dễ làm tổn hại cho nhiều người khi họ lợi dụng quyền hành, thế lực.

BỐN ĐIỀU CĂN BẢN ĐỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI

Phật pháp có nhiều cách để tu tập và hành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét, để giúp chúng ta thăng tiến trên bước đường tu tập và chuyển hóa đổi thay những gì xấu xa, tội lỗi: “Điều ác chưa phát sinh, tìm cách không cho phát sinh, nếu lỡ phát sinh rồi, thì tìm cách ngăn dừng, không cho phát sinh nữa. Điều thiện chưa sinh thì tìm cách cho tăng trưởng, nếu điều thiện đã sinh thì tìm cách duy trì gìn giữ.” Bốn điều này là nền tảng căn bản để đưa ta đến an vui, hạnh phúc, an lạc, thảnh thơi, dù người có tàn ác đến đâu, thậm chí phạm tội ngũ nghịch như giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm cho thân Phật chảy máu hay phá hủy hình tượng Phật, cũng có thể làm mới lại chính mình như trường hợp của vua A-dục.

Khi điều ác chưa sinh thì ta tìm cách không cho nó phát sinh. Vậy ác là gì? Ác là những hành động làm khổ mình, khổ người trong hiện tại và tương lai, người tạo việc ác là kẻ xấu, thường bị mọi người tránh xa, không thích gần gũi. Những việc ác cụ thể như giết hại, trộm cướp, tà dâm, lường gạt, bóc lột, hà hiếp, lợi dụng, phỉ báng, vu khống, ganh ghét, tham lam, ích kỷ, sân si… nói chung những gì làm tổn hại cho người và vật đều gọi là ác. Muốn thay đổi để điều ác chưa sinh không cho phát sinh rất là khó. Trong khi đó, cuộc sống của chúng ta chỉ cái ăn thôi là đã giết hại rồi, huống hồ còn biết bao vấn đề khác nên làm sao tránh khỏi.

Cho nên, theo lời Phật dạy, từ con người cho đến muôn loài muôn vật, muốn bảo tồn mạng sống phải biết nương nhờ lẫn nhau. Do đó, đạo Phật chủ trương hòa mình cùng nhân loại và muôn loài để kết nối tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha. Đạo Phật là đạo của con người, vì con người và sự sống của muôn loài, là đạo của từ bi và giác ngộ, là đạo của tình yêu thương và hiểu biết cùng với sự cảm thông, bao dung và tha thứ. Giác ngộ để thấy biết đúng sự thật giúp chúng ta thấu rõ bản chất cuộc đời là một trường đau khổ, vì vậy mọi người hãy nên cố gắng không làm các việc ác để không làm tổn hại cho nhau; hay làm các việc lành để cùng nhau chia sẻ nỗi khổ niềm đau, giúp con người vượt qua cơn khốn khó và thấy ai cũng là người thân, người thương của mình, nên chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.

Thái tử Sĩ Đạt Ta lúc còn 7 tuổi, nhân dịp theo cha làm lễ hạ điền khởi công làm ruộng đầu năm, ngài đã nhìn thấy được cảnh tương tàn, tương sát, giết hại lẫn nhau của bầu vũ trụ bao la này. Buổi lễ bắt đầu, từng luống đất đã được cày lên, nhiều thân xác côn trùng được phơi bày, bên cạnh đó không biết bao nhiêu loài chim đang chực chờ mổ lấy các côn trùng đó để tìm sự sống. Chúng đâu biết rằng, khi chúng đam mê tìm kiếm miếng mồi béo bở thì mạng sống của chúng như sợi tơ đang treo trước gió, vì những con chim cắt đang chực chờ để vồ lấy chúng bất cứ lúc nào. Cứ như thế theo luật tuần hoàn, bọn chúng ăn nuốt lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, cho đến con người muốn bảo tồn sự sống thì phải giết hại không biết bao nhiêu loài khác để nuôi sống bản thân mình. Sau khi giác ngộ dưới cội bồ đề, đức Phật đã chủ trương và hướng dẫn cho chúng ta thực hành từ-bi-hỷ-xả. Người xuất gia thì phải dừng hẳn các việc xấu ác bằng cách khất thực tùy duyên, không khởi tâm tham đắm, mong cầu để dễ dàng chuyển hóa những tâm niệm xấu xa, đê tiện. Ngày nay, do ảnh hưởng của sự tiến bộ khoa học vật chất, xã hội không chấp nhận người tu sĩ khất thực ngoài đường vì đa số đều có chùa và có chỗ định cư rõ ràng. Phần lớn sự sống của người tu sĩ là nhờ vào sự đóng góp, cúng dường của đàn na tín thí, nên việc khất thực dần dần hạn chế.

Tướng cướp Ương Quật Ma La là tên giết người tàn bạo, một thời đã làm cho đất nước Kiều Tát La hoảng loạn, không ai dám ra đường vì sợ bị giết. Thuở nhỏ chàng là một sinh viên thông minh tài trí được đưa đến học đạo với vị thầy nổi tiếng. Tuổi trẻ tài cao, khôi ngô tuấn tú, nên đã rơi vào mắt xanh của vợ thầy mình. Do không thuyết phục được người tình trẻ, bà ta điên cuồng tìm cách mưu hại chàng cho bõ ghét. Yêu không được nên sinh ra thù hận, cô vợ bèn giả dối thuật lại hành vi đê tiện của tên đệ tử cho chồng nghe; tưởng là sự thật nên ông chồng liền nỗi tam bành lục tặc, bừng bừng, giận dữ. Cô vợ nham hiểm, khéo léo chỉ bày cho chồng một diệu kế không thể tưởng tượng được.

Sao đó, ông thầy gặp người đệ tử bảo rằng, “thời gian con học đạo với ta, ta thấy con rất xứng đáng là người được kế thừa sự nghiệp của mình; nhưng con muốn được thừa hưởng pháp bí truyền này thì phải tuyệt đối thanh tịnh, trong sáng và phải rửa sạch ác nghiệp quá khứ bằng máu của 1000 người, khi nào làm được như vậy thì ta sẽ truyền tâm ấn cho con”. Nghe thầy mình chỉ dạy xong, Ương Quật chết điếng cả người, không biết phải làm sao? Chàng trai lúc này còn đang do dự, bán tín, bán nghi, nhưng ông thầy cứ thúc giục mãi, cuối cùng chàng trai đành phải chấp nhận ra đi tuy trong lòng vẫn hoang mang, hoảng loạn. Ương Quật Ma La tài ba lỗi lạc, võ nghệ cao cường nên việc giết người đơn giản và dễ dàng. Người đầu tiên đã bị chàng hạ gục trong tích tắc mặc dù vẫn còn bàng hoàng, sửng sốt trong điên dại. Rồi từ đó, gặp ai chàng cũng chém giết bất kể là nam hay nữ, lớn hay nhỏ. Tin đồn lan xa đến tai vua Ba Tư Nặc. Được sự trợ giúp của quan quân, nhưng tất cả đều bó tay và bất lực, vì không ai đủ sức để đương đầu với hắn. Người mất cha, người mất mẹ, cha mất con, vợ mất chồng, gây ra cảnh tan nhà nát cửa, thịt đổ xương rơi, người chết bị giết nằm ngổn ngang, người sống sót thì vô cùng kinh hoàng, lo sợ, không biết rồi số phận của mình sẽ ra sao? Tên điên cuồng đó sau khi giết người xong đều chặt lấy ngón tay xỏ lại thành từng xâu, đeo vào người giống như một báu vật. Dân chúng quá lo âu và sợ hãi và kêu chàng là người điên loạn.

Về sau, chuyện đến tai Phật, thấy được nhân duyên tốt để độ tên tướng cướp, Phật cố ý chọn con đường đi đến chỗ hắn đang hoạt động. Nhiều người biết được khuyên Phật không nên đi đến đó. Lúc này, Ương Quật Ma La đã giết 999 người và người thứ 1000 chính là mẹ của hắn. Hắn đang mừng thầm trong bụng để chờ đón nhận cái ngày hưởng tâm ấn sắp đến, bỗng nhiên từ đằng xa Phật đi tới, hắn đổi ý định giết mẹ vì có người đã chuẩn bị nạp mạng thế. Thấy bóng Ngài, hung thủ càng đi nhanh hơn để mau hoàn thành sứ mạng cao cả. Chiếc gươm hắn cầm sẵn trên tay chuẩn bị ra chiêu sát thủ. Đức Phật bình thản, ung dung từng bước đều như không có chuyện gì xảy ra, nhưng tên tướng cướp vẫn không tài nào đuổi theo kịp dù hắn ráng cố sức chạy thật nhanh. Cuối cùng, hắn đành phải dậm chân tại chỗ gọi lớn, “này Sa môn đầu trọc! Sao ông đi nhanh thế, hãy dừng lại!” Phật bình thản nói, “dù Như Lai đang đi, nhưng Như Lai đã dừng từ lâu, chỉ có con là chưa dừng bước?”

Tên tướng cướp ngạc nhiên thầm nghĩ, “chắc Sa môn đầu trọc không bao giờ nói láo, ta đang dừng, ổng đang đi, mà ổng lại nói ổng đã dừng, còn ta đang đi. Sao lại như thế được?” Hắn tức quá liền hỏi, “này Sa môn! Tôi mới là người đang dừng, còn ông là người đang đi, cớ sao ông lại nói năng ngược ngạo như vậy? Chắc ông có ý gì đây”. “Thật vậy, này anh bạn trẻ! Như Lai đã dừng từ lâu và mãi mãi như thế, Như Lai đã từ bỏ không gây thương đau hay giết hại một chúng sinh nào dù là một sinh vật nhỏ bé nhất. Như Lai không bao giờ gây đau khổ cho ai, còn con vẫn giết người không gướm tay chỉ vì chấp trước sai lầm mà gây đau thương, tang tóc cho nhiều người, làm khủng hoảng và chấn động cả đất nước Kiều Tát La này vì mưu cầu lợi ích cá nhân. Như Lai đã dừng, còn con thì đang giết người không gớm tay, tội lỗi ấy biết bao giờ mới trả hết?”

Lời nói của Phật khiến tên tướng cướp cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, như đứa con thơ dại khát sữa lâu ngày giờ mới gặp được sữa mẹ. Một hồi lâu, chàng mới lấy lại bình tỉnh, nhớ lại thời thơ ấu thường nghe thiên hạ đồn rằng, “có Sa môn Cồ Đàm trước kia là hoàng thái tử dám từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để ra đi tìm đạo và đã giác ngộ. Ngài đã hướng dẫn và giúp đỡ nhiều người vượt qua khổ đau sanh tử, Ngài luôn từ bi, cao thượng, cứu giúp chúng sinh”. “Chắc chắn đây là Ngài rồi!” Nghĩ như thế, tên tướng cướp liền vứt bỏ gươm và quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, kính cẩn thưa rằng, “Kính bạch đức Thế tôn, con có mắt như mù nên đã lầm đường lạc lối, nay nhờ gặp Ngài đã vén mây mù cho con, như người dựng đứng những gì đã ngã, thật hạnh phúc thay cho con đã được Ngài tế độ”. “Đúng vậy, này chàng trai trẻ! Bây giờ con đã vứt bỏ thanh kiếm, con cần Như Lai giúp đỡ điều gì?” “Kính bạch đức Thế tôn, con như con thú hoang điên cuồng, đã từ lâu con chưa bao giờ biết khuất phục một ai, con gặp Ngài không bằng uy quyền thế lực, con cảm thấy bình an và thơ dại trước tấm lòng từ bi bao la, rộng lớn của Ngài. Con muốn làm lại cuộc đời thuần lương để được sống yêu thương và hiểu biết, nhưng ai có thể giúp được cho con khi con đã giết cả ngàn người như vậy? Con tội lỗi quá chừng”. “Này Ương Quật Ma La, trên đời này có hai hạng người được xem là đáng tôn kính, “hạng thứ nhất là người chưa bao giờ gây tạo tội lỗi, lại hay luôn giúp đỡ người khác làm điều tốt lành; hạng thứ hai là kẻ đã từng gây tạo tội lỗi nhưng biết ăn năn, sám hối chừa bỏ, không bao giờ tái phạm trở lại. Nếu con tha thiết muốn làm người lương thiện thì ta có thể giúp đỡ cho con”. “Bạch đức Thế tôn, con cũng muốn như thế lắm, nhưng tội lỗi của con đã gây ra quá nhiều, chưa bao giờ có người giết hại như con. Con làm sao đủ tư cách để làm người lương thiện, huống hồ là được làm đệ tử của Ngài, một con người chưa từng làm xúc não cho ai”

Con người ta thường hay mặc cảm, tự ti với quá khứ lỗi lầm nên không dám mạnh dạn quay đầu dù đã có người giúp đỡ. Họ cứ bị ác nghiệp quá khứ dày dò, bị ám ảnh bởi việc làm xấu trước kia, không dám can đảm sám hối từ bỏ tội lỗi, không dám chấp nhận sự thật, không dám tự tin chính mình có khả năng thay đổi cuộc đời nên đành chấp nhận xuôi tay, phó mặc cho số phận định đọat, cuối cùng sống trong đau khổ, lầm mê. Có người bước đầu vì một phút sai lầm nho nhỏ không kiềm chế được cơn giận, nên đã vướng vào con đường tù tội; sau khi hồi gia lại gây ra những vụ án giết người khủng khiếp làm đau khổ nhiều người. Một số người mới đầu chỉ phạm tội nhẹ do một phút bốc đồng trong lúc nóng giận, nhưng khi vào tù một thời gian, sau này trở thành tội phạm nguy hiểm dã man. Tại sao? Khi ở tù lại tiếp xúc với nhiều thành phần bất hảo, giang hồ thứ thiệt, được các đàn anh kể lại thành tích huy hoàng một thời khi chưa bị bắt, lại trong trại giam không có phương pháp giáo dục cụ thể, chỉ là nơi giam giữ tạm thời, rồi tình trạng đại bàng lộng hành trong nhà tù cấu kết cán bộ quản giáo, làm con người tăng thêm tội lỗi, học thêm được những mánh khóe xảo quyệt như đàn áp, trấn lột công khai, ma mới ăn hiếp ma cũ. Mỗi ngày sống trong nhà tù vô tình tạo cho phạm nhân huân tập thêm những thói hư tật xấu, nhất là những phạm nhân đại bàng, khi ra tù chưa về đến nhà đã phạm tội trở lại.

Sự tiến bộ phát triển càng nhanh khiến con người không theo kịp trào lưu cuộc sống, cứ mải mê chạy theo nhu cầu vật chất mà quên đi phần tinh thần tâm linh. Thật đau đầu nhức óc đối với nghành quản giáo phạm nhân, hiện nay chưa tìm ra giải pháp tối ưu để hướng dẫn cho phạm nhân ý thức được những việc làm sai trái của mình. Ngày nay, trên đà phát triển của văn minh thế giới, các nước tiến bộ đều nhờ các nhà giáo dục tâm linh đạo đức vào trại để hướng dẫn phạm nhân hành thiền. Sau đó chia sẻ cho họ hiểu được lý nhân quả nghiệp báo luân hồi, không phải chết là hết, mà chết là thay hình đổi dạng chuyển sang kiếp sống mới tùy theo phước nghiệp của mọi người, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau, để giúp họ có lòng tin nhân quả, sau này hồi gia họ sẽ sống lương thiện hơn.

Ở Việt Nam, thầy Nhật Từ đã vào trại giam K20 Tỉnh Bến Tre, ngòai những món quà vật chất để góp phần nâng cao đời sống phạm nhân, thầy còn chia sẻ cách thức làm mới lại chính mình với những chủ đề: quay đầu là bờ, tự do nội tại, bỏ kiếp giang hồ, làm lại cuộc đời, đứng dậy sau vấp ngã, đã giúp phạm nhân vượt qua mặc cảm tội lỗi của quá khứ và tin sâu nhân quả, nên anh chị em nơi đây đã sống tốt hơn. Con người thời nay do chú trọng về mặt vật chất quá nhiều, nên chúng ta không có thời gian để ngồi lại suy gẫm, chỉ một bề lo hưởng thụ vật chất, do đó dễ dàng bị sa đọa. Phương tiện vật chất dồi dào sung mãn thì mặt tâm linh đạo đức bị mai một, dẫn đến nguy cơ suy đồi nhân cách, do đó tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng. Nhan nhãn mỗi ngày hình ảnh giết người, cướp của rất dã man chỉ vì vài trăm ngàn đồng, hoặc chỉ vài triệu bạc mà phế bỏ đi mạng sống con người. Ngồi gẫm lại mà thật đau lòng xót dạ, thế nhân bây giờ bị tha hóa đến mức không thể tưởng tượng được, chỉ vì một chút vật chất cỏn con mà ta đành lòng nhẫn tâm giết hại đến thế. Đạo đức suy đồi, tâm linh mai một, con người sa ngã, thấy biết sai lầm, đam mê hưởng thụ, đời sống thấp kém, chẳng biết đúng sai, gây thù chuốc oán không có ngày cùng. Trong các tội khổ, tội giết hại là tội nặng nhất và nhất là giết người. Luật pháp còn không thể tha thứ huống là luật nhân quả luôn âm thầm chi phối vay trả, trả vay vô cùng tận. Vậy mà tình trạng giết người cướp của trên thế gian này vẫn xảy ra ngày càng nhiều hơn.

Sự sống hưởng thụ quá mức không ý thức được sự tác hại của nó, ỷ lại vào gia đình, cha mẹ thiếu quan tâm, chỉ biết cấp dưỡng theo nhu cầu để con cái sống phóng túng, biếng nhác, nên dễ dàng bị sa đọa. Đau lòng xót dạ hơn, tuổi trẻ ngày nay còn trong màu áo ngây thơ, ấy thế mà giết người không gướm tay như vụ án bé Ngọc và Đức Huy mười lăm và mười bẩy tuổi đăng trên báo đời sống và pháp luật, cố ý giết người để cướp của chỉ là chiếc xe Honda. Khi bị bắt, Ngọc và Huy tỉnh bơ, coi như chuyện bình thường không có gì là hối hận. Tên Huy giả vờ ngất xỉu để nhờ nạn nhân đến cứu, rồi sau đó dùng dao đâm nạn nhân cho đến chết. Thật khủng khiếp thay mạng sống con người quá rẻ. Tệ nạn thông tin, hình ảnh bạo động công khai, dẫn đến con người bị lờn thuốc qua sách báo, phim ảnh đồi trị tác động đến sự hiếu kỳ của tuổi trẻ, chúng làm thử coi mình có giống nhân vật trong phim hay không?

Ngày nay, nền giáo dục nhân phẩm đạo đức bị xuống cấp trầm trọng, xã hội vẫn chưa có chủ trương chính sách cụ thể để làm sao giảm bớt tệ nạn xã hội. Điều đáng mừng nhất hiện nay là tại trung tâm bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa- Tỉnh Bình Dương đã mạnh dạn xây một ngôi chùa mang tên Phước Thiện và một giảng đường để các trại viên hàng tháng được sinh họat chương trình “Kết nối yêu thương - Sẻ chia cuộc sống - Từ thiện Duyên Lành” do thầy Phổ Giác hướng dẫn. Mỗi lần sinh họat như thế, các trại viên được ăn chay một bữa do nhóm Phật tử đoàn từ thiện Duyên Lành phát tâm ủng hộ. Ngòai ra còn có chương trình ca hát văn nghệ phục vụ thường kỳ cho các trại viên do nhóm ca sĩ Nguyên Phượng, nhạc sĩ Vũ Ngọc Toản, nhóm nghệ sĩ Giang Linh, nhóm ca sĩ Kim Hà Bình Dương. Chương trình kết nối yêu thương luôn đem đến niềm vui cho nhiều người, không những bằng lời ca tiếng hát ngọt ngào, êm dịu, mà còn hướng dẫn các trại viên sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng và hành trì niệm Phật để mọi người được an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ trong tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Sau đó là những lời chia sẻ chân tình của người đã từng bị vấp ngã được Phật pháp cứu vớt, giúp mọi người thêm vững niềm tin trong cuộc sống. Nhờ vậy, sau thời gian dài họat động, chương trình kết nối yêu thương đã giúp cho các trại viên không còn than thân trách phận, trên thì oán trời, dưới trách móc xã hội. Mọi người ý thức được trách nhiệm và vai trò sống trong hiện tại, cố gắng tu tập và sống tốt hơn để chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

PHẬT ĐỘ TÊN TƯỚNG CƯỚP

Lúc này, tên cướp thiết tha muốn trở thành người lương thiện đang trông chờ vào sự giúp đỡ của Như Lai, biết được nhân duyên đã chín mùi Phật bảo, “này chàng trai trẻ, có một gian phòng tối tăm suốt một thời gian dài, nếu có ngọn đèn được thắp sáng lên thì bóng tối đó có còn hay không?” “Chắc chắn là không còn bóng tối, thưa ngài!” “Đúng thế! này chàng trai trẻ, dù con đã giết quá nhiều người nhưng nếu con thực tâm biết ăn năn, sám hối, luôn thắp lên ngọn đèn trí tuệ thì ác nghiệp tối tăm của con sẽ dần được tiêu trừ, bóng tối sẽ không còn nữa. Con vẫn có cơ hội được làm người tốt trở lại và có thể tu chứng như bao nhiêu người khác. Đây là điều kiện bình đẳng của tất cả mọi người, Như Lai xác quyết với con như thế nếu con muốn làm người lương thiện. Ương Quật Ma La được nghe điều chưa từng nghe và hôm đó được xuất gia làm Tỳ kheo trước sự ngỡ ngàng của nhiều vị thầy trong Tăng đoàn. Cuộc đời chàng đã được thay hình đổi dạng kể từ đây, được tu tập dưới sự hướng dẫn của Như Lai thế tôn như đứa con thơ lưu lạc lâu ngày, tìm được cha trao cho gia tài, sự nghiệp kế thừa.

Lúc này, vua Ba Tư Nặc mất ăn mất ngủ mấy tháng nay mới đến gặp Phật, cầu sự chỉ dạy về tên tướng cướp giết người dã man. “Đại vương, nếu bây giờ có ai báo cáo tên cướp đang ở gần đại vương thì đại vương sẽ nghĩ sao?” Vua Ba Tư Nặc liền đứng ngay dậy, mặt mày tái mét, “con sẽ giết hắn liền lập tức để diệt trừ hậu quả cho nhiều người”. Phật nói, “nhưng nếu hắn muốn hòan lương, cạo bỏ râu tóc xuất gia làm tỳ kheo thì đại vương sẽ đối đãi với y ra sao?” Vua nói, “chuyện này không thể có được, tên ác ôn đó làm sao đủ khả năng thay tâm đổi tánh nhanh như thế được?” “Như Lai có thể làm được khi hội đủ nhân duyên”.

Thật hy hữu thay, ai đầy đủ phước duyên nên được sinh trong thời có Phật và được Phật giáo hóa để trở thành một con người tốt; như trường hợp của Ương Quật Ma La chân thành, tha thiết muốn được làm người hoàn lương và thật sự ăn năn hối cải, nên mới được Như Lai điều phục bằng tâm Từ tỏa sáng. Vua thưa “nếu quả thiệt như vậy, con xin đảnh lễ bậc thầy ba cõi có một không hai trên thế gian này, chỉ có Ngài mới làm được điều đó”. Phật chỉ một vị sa môn trẻ đang ngồi trên tảng đá, dáng vẻ khôi ngô, tuấn tú, hiền hòa. “Này đại vương, vị Tỳ kheo đang ngồi đó, cách đây một tuần được dân chúng gọi là ác quỷ ngón tay”. Vua BaTư Nặc bàng hòang sửng sốt một hồi lâu mới lấy lại bình tĩnh khi chính mình mất thấy tai nghe, nên vua cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm vì từ nay về sau không còn phải lo lắng, bất an và sợ hãi nữa.

Ngày xưa, các vị vua rất quý trọng người tu hành chân chánh, nên người nào đã được Phật hóa độ, dù người đó gây tội ác tày trời vẫn được tha thứ và khoan hồng. Có người chỉ làm ác nhỏ mà thân phải bị đọa ngục, chịu nhiều sự khổ; còn Ương Quật Ma La tuy giết hại nhiều người nhưng được Phật độ xuất gia hưởng phước tu hành, vậy thì nhân quả không công bằng hay sao? Thật ra, nhân quả không cố định một chiều như chúng ta thường nghĩ “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, nó chỉ đúng cho người nào chấp nhận số phận đã an bài; và ngược lại, nhân quả có thể thay đổi tùy theo nhân duyên mà chuyển biến linh động trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, nếu nói giết hại phải đền mạng thì dù có tu cũng vậy thôi, đâu có được lợi ích gì?

Kinh nhân quả nói, giả sử trăm ngàn muôn kiếp thì nghiệp đã tạo cũng không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo đến mình phải chịu. Tuy nhiên, nhân quả không cố định, cũng đồng tạo nghiệp xấu nhưng có kẻ khổ người vui, còn tùy thuộc vào sự tu tập nhiều đời và sự thành tâm khẫn thiết của người đó trong hiện tại, nên có kết quả sai biệt. Từ nhân đến quả có sự thay đổi liên tục nhiệm mầu, thế nên nếu bảo là cố định thì thế gian này không ai tu được, vì có tu cũng vậy thôi, ác cố định là ác, thiện cố định là thiện. Nó đã như vậy thì có tu cũng uổng công vô ích, vô tình đưa người ta vào con đường tội lỗi, hết hy vọng thay đổi làm mới lại chính mình.

Như bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, xưa kia tạo nghiệp si mê, nghiện ngập tứ đổ tường, nếu nói cái gì cũng cố định thì giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù, nghiện ngập. Bởi do trước kia hiểu biết thấp kém, nông cạn cho rằng chết là hết nên mặc tình hưởng thụ, ngập chìm trong tội lỗi, cuối cùng làm khổ mình, hại người. Ngày nay, nhờ gần gũi, thân cận bậc minh sư chân chánh cùng chư huynh đệ pháp lữ hiền nhân, ai cũng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình qua lời Phật dạy nên cùng nhau sống hòa hợp, đòan kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần tu học và lao động.

Một em bé khi còn nhỏ chưa biết gì, nhờ cha mẹ khéo dạy bảo cho học hành đàng hoàng, lớn lên cậu bé trở thành người khôn ngoan, hiểu biết, giúp ích cho nhân loại. Một miếng đất hoang nếu người nông dân biết gieo trồng chăm sóc, nó sẽ biến thành những luống rau, liếp cải để phục vụ cho con người. Tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này cũng đều như thế, không có gì là cố định cả, thế nên ai nói “nhân nào quả nấy” là chưa đúng hẳn, nó chỉ đúng khi con người chấp nhận số phận đã an bài. Nếu nói ác cố định là ác, thiện cố định là thiện thì còn ai tu tập làm gì cho tốn công vô ích? Vì thế, có người làm ác nhỏ hiện tiền chịu nhiều quả khổ lớn, cũng việc ác đó người có phước báu lớn không chịu quả khổ vì người này biết tu giới, tu thân, tu tâm niệm rộng lớn nên chuyển được quả xấu. Ương Quật Ma La nhờ nhiều đời trước đã gieo trồng phước đức, tuy hiện tại làm tội ác tày trời do gặp bạn xấu thầy tà xúi giục, không phải do mình cố tâm muốn làm. Sau nhờ gặp Phật giáo hóa tâm phục khẩu phục nên đã nhận ra sai lầm của mình, tha thiết ăn năn, hối cải, làm lại cuộc đời. Các vua thời Phật tại thế rất tôn trọng đạo pháp, biết cung kính người tu hành chân chánh, biết tôn sư trọng đạo, thay vì phải bị tội chết theo luật pháp thế gian nhưng ngược lại Ương Quật Ma La được ân xá nhờ tu hành.

Đó là tinh thần từ-bi-hỷ-xả của đạo Phật, không đưa người ta vào con đường cùng khi đã lỡ lầm gây tạo tội lỗi; ngược lại, còn tìm cách giúp cho người đó phát tâm hướng thượng làm mới lại chính mình. Vì vậy, ngày nay có một số nước trên thế giới đều bỏ án tử hình để người phạm tội có cơ hội sống mà suy gẫm lại những việc làm sai trái của chính mình. Đó cũng là phương cách tốt nhất để giúp người vượt qua lỗi lầm và tội ác. Nếu tin theo số phận đã an bài không thể thay đổi được, vô tình đưa người ta vào con đường cùng không lối thoát, đành chịu chết chìm trong tội lỗi. Nhờ tấm lòng từ bi bao la, rộng lớn của Phật, tên tướng cướp Vô Não được xuất gia làm Tỳ kheo và luôn cố gắng siêng năng tinh tấn tu hành. Tuy nhiên, do ác nghiệp cũ quá nặng nề, nỗi ám ảnh về các nạn nhân bị giết hại do ngài gây ra lúc trước khiến ngài lúc nào cũng nghe tiếng rên la văng vẳng bên tai, làm cho thân tâm bất an, sợ hãi. Mỗi ngày thầy đi khất thực đều bị gia đình các nạn nhân chọi đá, đánh đập, chửi rủa, họ nhìn thầy với đôi mắt căm phẫn, thù hằn. Để gia đình các nạn nhân không làm hại thầy, vua Ba Tư Nặc đặc biệt ra lệnh ân xá và khuyên tất cả người dân hãy nên tha thứ và thông cảm cho thầy.

Sự chết chóc và mất mát của người thân làm cho gia đình họ bị thiệt thòi về nhiều phương diện, cảnh vợ mất chồng để mẹ góa con côi, không ai nuôi nấng dỗ dành, con mất cha bơ vơ sống lạc loài, mẹ mất con trong nỗi niềm thương tiếc… Vì thế, ngày nào thầy cũng bị thương tích đầy người trong rất thảm thương, nhưng thầy vẫn không than oán, trách móc một ai, cứ như thế âm thầm chịu đựng trước sự thù hằn, giận dữ của nhiều gia đình nạn nhân. Một hôm, trên đường đi khất thực, tôn giả gặp một thiếu phụ sanh khó đang nằm rên siết oằn oại bên vệ đường nhờ thầy giúp đỡ. Tôn giả nói, “tôi mới vào đạo chưa biết pháp này, chỉ có thầy tôi là Phật mới có thể giúp được chị”. Nói xong, tôn giả về gặp Phật trình bày sự việc như thế! Phật dạy, “con hãy đến gặp chị ấy và thành tâm chúc lành như sau: Chào chị, từ ngày tôi biết đạo đến nay chưa từng sát sanh, mong chị được mẹ tròn con vuông”. Sau khi nghe lời Phật dạy, tôn giả liền vội vàng đi đến chỗ người thiếu phụ, chúc lành đến cho nàng. Thật kỳ diệu thay, đứa bé được chào đời trong niềm vui của nhiều người, từ ngày đó trở về sau, chư huynh đệ pháp lữ đồng tu đều gọi thầy là người đem bình an và hạnh phúc đến cho nhân loại.

Ở Việt Nam thường có tập tục ăn mừng đầy tháng sau khi sinh con được một tháng. Tập tục này nếu hiểu theo đúng nghĩa là mừng mẹ tròn con vuông, bởi người phụ nữ từ khi mang thai cho đến lúc khai hoa nở nhụy không biết bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra, rất khó bảo tồn được mạng sống. Chuyện mang nặng đẻ đau cho đến khi được thuận buồm xuôi gió là cả một quá trình nhọc nhằn, khổ sở. Vì vậy, dân gian Việt Nam có câu:

           Đàn ông đi biển có đôi
           Đàn bà đi biển mồ côi một mình.

Do đó, khi sinh con được một tháng, chúng ta thường mời cha mẹ, người thân, bè bạn đến để ăn mừng. Thực tế, đó là mừng mẹ tròn con vuông, mẹ vẫn còn sống, con vẫn mạnh khỏe, mừng hai mẹ con đều được bình an, suông sẽ. Nhờ nhân duyên đó, tôn giả càng thêm vững niềm tin với chánh pháp, nên cố gắng tinh cần tu tập và một thời gian sau tôn giả đã chứng quả A-la-hán với lực dụng không thể nghĩ bàn. Nhiều nguời thắc mắc tại sao một con người hung tàn, bạo ngược như thầy, đầy dẫy tội lỗi xấu xa mà lại được chứng quả nhanh như thế, trong khi ngài A-nan nhiều phước báu hơn thầy vẫn chưa chứng được. Để giải quyết mối nghi ngờ của đại chúng, Phật dạy, “mọi người trên thế gian này đều bình đẳng như nhau ở khả năng giác ngộ và si mê. A-nan tuy thông minh, lanh lợi, nhưng do sự học hỏi hiểu biết được huân tập từ bên ngòai vào, nên chỉ thông suốt về văn tự chữ nghĩa, còn dính mắc ở ngôn ngữ, do đó không đạt được đỉnh cao của sự giác ngộ và giải thoát. Thầy Ương Quật Ma La trước kia tuy là người hung tàn, bạo ác, nhưng do tinh cần miên mật tu tập, phát sáng được trí tuệ sẵn có của chính mình nên đã chuyển hóa được ác nghiệp. Giống như có một căn phòng tối tăm ngàn năm, nay được thắp sáng bởi ngọn đèn, vậy căn phòng đó có còn tối tăm nữa hay không? Khi ánh sáng ngọn đèn có mặt thì tối tăm biến mất, giác ngộ và si mê cũng lại như thế”. Lời dạy của Ngài được tóm tắt bằng một bài kệ:

       Người không sợ hãi luôn cao thượng,
       Như bậc đại thánh đã vượt qua,
       Không còn bị dục vọng chi phối,
       Không còn bị nhiễm ô,
       Thật sự giác ngộ,
       Người ấy Như Lai gọi là Bà-la-môn.

Như có một Thiền sư trước kia làm nghề đồ tể, đang thọc huyết heo bỗng nhiên giác ngộ, liền đi xuất gia trước sự ngạc nhiên của nhiều người. Ngài có làm bài kệ.

       Hôm qua tâm dạ xoa,
       Hôm nay mặt Bồ tát,
       Bồ tát cùng dạ xoa,
       Chẳng cách một sợi tóc.

Mới hôm nào tâm địa độc ác như quỷ dữ, luôn làm tổn hại cho nhiều người mà giờ đây đã hiền lành, ngoan ngoãn, hay giúp người, cứu vật.

       Xưa nay chỉ một tâm
       Khi mê là phàm phu
       Khi tỉnh liền giác ngộ
       Phiền não tức bồ đề.

Một con người dù làm ác tới đâu, một khi đã giác ngộ rồi có thể thay đổi nghiệp nhân xấu ác trở thành nghiệp nhân tốt lành. Khi mê thì làm việc xấu ác, khi ngộ thì làm việc thiện ích, mê và ngộ chỉ cách nhau một sợi tóc, nhờ vậy con người ta mới thay đổi và chuyển hóa được những thói quen tật xấu.

THAY LỜI KẾT 

Nghiệt ngã thay dòng đời mê muội bởi thấy biết sai lầm nên mới chuốc họa vào thân; dù biết đó là tai hại, khổ đau, nhưng nhiều người vẫn chịu chết chìm trong tội lỗi. Con người cứ thế loanh quanh, lẩn quẩn trong nỗi khổ, niềm đau, để rồi làm chết đi các hột giống tốt lành, gieo đau thương, khổ não cho nhiều người. Thế gian là một trường đời ô hợp luôn chất chứa muôn ngàn sóng gió lành dữ, đúng sai, phải quấy, tốt xấu, buồn thương, giận ghét. Tình đời là thế đó, một kiếp người chẳng đáng là bao, vậy mà nhiều người vẫn bị dòng nước cuốn trôi và nhấn chìm. Chỉ có đấng Thế tôn - vị cha lành đáng kính, Ngài đã vượt qua cạm bẫy cuộc đời, rống lên tiếng rống sư tử trên 2600 năm, làm muôn loài thú phải nép mình trong sợ hãi. Ngài đã xua tan bóng tối mê lầm từ dạo ấy, đem lại quyền làm chủ cho thế giới loài người, đem lại niềm tin và chân lý mãi sáng ngời trong nhân loại. Thật hạnh phúc thay cho loài người chúng ta đã biết được những điều chưa biết, đã thấy được những điều chưa thấy, đã nghe được những điều chưa nghe, mỗi người hãy tự thắp sáng lên ngọn đuốc của chính mình thì thế gian này sẽ tỏa sáng, rực sáng trong niềm an vui, hạnh phúc. Ngược lại, nếu ai chấp nhận số phận đã an bài thì người đó sẽ sống mãi trong tối tăm, mê muội, trong ngục tù, tội lỗi.

Ta có quyền vươn lên từ sức mạnh của ý chí, niềm tin và nghị lực thì mọi việc sẽ có thể thay đổi tốt đẹp. Nhân quả khác với số phận là có thể thay đổi được, còn số phận thì không. Người tin sâu nhân quả sẽ làm mới chính mình bằng sức mạnh của trí tuệ, nên dễ dàng vượt qua sóng gió cuộc đời bằng nhận thức sáng suốt và việc làm chân chánh. Người chấp nhận số phận đã an bài thì dễ dàng buông xuôi cuộc sống, yếu đuối, bạc nhược, cuối cùng bị dòng đời cuốn trôi để rồi phải sống trong đau khổ, lầm mê. Nếu chúng ta chấp nhận cái gì cũng cố định cả, dù có tu cũng chẳng lợi ích gì. Như bản thân chúng tôi đã từng nghiện ngập, đam mê đủ thứ, nếu không thay đổi được thì giờ đây tôi đã rũ xương trong lao tù, nghiện ngập. Nhiều người vì không hiểu thấu lý nhân quả nên chấp nhận cuộc đời giống như bèo dạt mây trôi, cứ nghĩ rằng ai làm sao tôi làm vậy, ai làm bậy tôi làm theo, chẳng biết suy nghĩ tìm tòi, mặc tình cho dòng đời cuốn trôi. Cái quan niệm đó chỉ hợp với thời đại xa xưa và ngày nay khoa học đã chứng minh rằng, không có cái gì do một nhân mà hình thành.

Cờ bạc, rượu chè, hút xách, đàng điếm, liều lĩnh, bất mãn, buông lung, phóng túng và sa đọa, chúng tôi đã từng mắc phải từ lúc còn thơ dại. Vậy cái gì đã thúc đẩy tôi khi tuổi đời còn non kém để mắc phải sai lầm đáng tiếc. Đó là do sự tác nghiệp của quá khứ quá sâu đậm nên bây giờ khi hội đủ nhân duyên liền bị hút vào dòng xoáy của đam mê, tội lỗi. Tuy nhiên, nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta không thể nào một sớm, một chiều mà thấu rõ được hết. Trong kinh Phật dạy, nếu người nào trước kia lỡ gây tạo nghiệp xấu ác, hiện tại biết tu giới, tu thân, tu tâm hay làm các điều phước thiện thì nhân quả xấu nhiều đời có thể thay đổi được tùy theo khả năng tu tập của mình.

       Xưa nay hiền thánh thường khen ngợi
       Thật đáng khâm phục người biết lỗi.
       Ai sống mà không có lỗi
       Có lỗi mà biết sửa đổi hay thay.

Đã làm người dù ít hay nhiều ai cũng có thể vấp phải lỗi lầm. Phật pháp chính là chiếc thuyền Từ cứu vớt chúng sinh làm mới lại chính mình, vượt qua dòng sông tội lỗi. Cái hay của Phật pháp là giúp chúng ta vững niềm tin nơi chính mình, từ đó chúng ta có thể tự mình đứng lên, vượt qua số phận một cách dễ dàng sau khi vấp ngã. Người trí thì không cần nương tựa vào ai mà tự mình chiêm nghiệm, quán xét để không bị rơi vào dòng đam mê, tội lỗi. Còn người đang bị mê lầm, chưa đủ niềm tin thì phải nương thầy lành bạn tốt, tránh xa bạn bè xấu ác và được sự hỗ trợ đắc lực của gia đình thì mới có thể làm mới lại cuộc đời. Chính bản thân chúng tôi đã nhiều lần bị vấp ngã khi chưa gặp Phật pháp, mặc dù đã cố gắng quyết tâm hết sức mình để vượt qua những lỗi lầm nhưng không thể nào vượt nổi. Khi chưa gặp duyên xấu thì không sao, nhưng khi gặp rồi thì chứng nào tật nấy, như ngựa quen đường cũ khó mà dứt ra. Đây chính là tập khí nhiều đời của chúng ta đã từng huân tập. Tập là thói quen được lặp đi, lặp lại nhiều lần từ những ý nghĩ, lời nói rồi hành động, bởi vì huân tập lâu ngày nên nó có sức mạnh chi phối và sai sử ta chạy theo thói quen đó. Từ vô thủy kiếp đến nay ai cũng từng luân hồi vô số kiếp nên chất chứa nhiều thói quen, tật xấu, muốn thay đổi và chuyển hóa chúng ta phải có thời gian dài quán chiếu, xem xét và tu tập thì mới có thể buông bỏ được.

Thực tế chúng tôi không phải là người hay ho tài giỏi gì, nhờ nhân duyên nhiều đời đã gieo trồng phước đức nên ngày nay hội đủ nhân duyên mới gặp được thầy lành, bạn tốt. Và chúng ta đi khắp cả thế gian này không ai tốt bằng mẹ. Mẹ là người đã giúp chúng tôi vượt qua cạm bẫy cuộc đời để gặp được Tam bảo. Nếu ai bây giờ còn mẹ thì đó là một phước báo to lớn vô cùng, vì còn có cơ hội hiếu kính, phụng dưỡng, báo đáp công sinh thành, dưỡng dục của hai đấng sinh thành, nhất là ơn mẹ rất khó đền.

         Nhờ mẹ tôi biết đường tu,
         Nếu không có mẹ tôi giờ ra sao?
         Cũng nhờ có được mẹ hiền,
         Tôi vào cửa Phật tu hành đến nay.

Tình thương của mẹ đối với tôi thật cao cả và quý báu, dù tôi tu có thành Phật đi chăng nữa cũng không thể nào trả hết công ơn của mẹ. Trong cuộc đời này, tôi không thể nào kiếm đâu ra được một người mẹ như mẹ của tôi bây giờ, bà như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm đi vào đời để cứu giúp chúng sinh. Nơi nào có khổ đau là nơi đó có Bồ Tát. Hơn nửa đời người, tôi làm khổ mẹ quá chừng, vậy mà khi tôi gặp nạn hoặc lường gạt ai, bà sẵn sàng đền bù tất cả để giúp tôi vượt khỏi vòng lao lý. Ngày nay, tuy tôi được an ổn tu hành nhưng vẫn không có nhiều cơ hội để được chăm sóc mẹ trong khoảng đời còn lại. Ngược lại, bà lúc nào cũng thương tưởng nhớ đến tôi, luôn hỏi thăm các em tôi coi thầy Phổ Giác lúc này còn tu nữa hay không? Một hôm, vì muốn thăm tôi, bà nói gạt với mấy đứa em có người nói tôi ra đời để có cớ lên Thường Chiếu. Khi gặp tôi bà cười hì hì, ra chiều thoải mái lắm, mặc dù bà đang bệnh phải đi xe lăn. Tấm lòng của mẹ đối với tôi thật bao la, cao cả. Tôi không biết phải lấy gì để đền đáp hết công ơn mẹ, chỉ thầm nguyện trong lòng cố gắng tu hành viên mãn để cùng mẹ đi trên con đường giác ngộ.

Trên thế gian này, chắc có lẽ không có tình yêu thương nào thiêng liêng và cao quý hơn tình mẹ. Từ khi mở mắt chào đời, mẹ đã mớm sữa cho con và nâng niu, che chở bằng lời ru, tiếng hát ngọt ngào để con yên giấc ngủ. Mẹ vẫn âm thầm thức khuya dậy sớm, không quản ngại thân gầy để lo cho con từ miếng ăn, giấc ngủ, miếng cơm manh áo, mong con mau khôn lớn. Đôi lúc mẹ vì con trẻ mà chịu nhiều gian lao, cực khổ, và thậm chí chấp nhận gây tạo tội lỗi để giúp con được an vui, hạnh phúc. Khi con chập chững biết đi, mẹ vui mừng và sung sướng. Đến lúc con trưởng thành, mẹ lo cho con ăn học, xây dựng tương lai sự nghiệp, dựng vợ gã chồng để đắp xây hạnh phúc gia đình. Ôi, tình mẹ thật là cao cả và sâu nặng. Mẹ đã hy sinh cho con suốt cả cuộc đời mà không nghĩ đến bản thân. Ai còn mẹ hãy nên biết ơn và đền ơn, đừng để mẹ buồn, mẹ khổ.

            Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ.
            Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn.
            Bao bọc chở che khi con gặp hoạn nạn.
            An ủi vỗ về khi con phải đi xa.
            Mẹ vẫn bên con dù biển cạn, núi mòn.
            Gánh nặng cuộc đời mẹ mang cả hai vai.
            Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ buồn khổ.
            Không có mẹ con đã ra người thiên cổ.
            Mẹ là cả bầu trời thương yêu, dịu ngọt.
            Mẹ là cả bầu trời che mát cho con.

Quả thật, đi hết trái đất này tôi cũng không thể tìm ra được người mẹ nào như mẹ tôi bây giờ. Mẹ đã cho tôi tất cả để được bình yên tận cõi lòng, tôi thầm cám ơn mẹ và quyết chí tu hành để đền đáp công ơn mẹ. Thật ra, bà không chỉ thương mình tôi mà tám anh em tôi bà đều thương yêu như nhau cả. Đứa ăn nên làm ra bà cũng thương, đứa nghèo khổ bà càng thương hơn và có những đứa chỉ làm hại hoàn toàn như tôi bà vẫn thương. Nhờ tình thương của mẹ đã giúp tôi vươn lên chính mình vượt qua số phận tối tăm. Ai bây giờ còn mẹ thì hãy hết lòng hiếu dưỡng không một phút giây nào xao lãng, đừng để khi mẹ ra đi rồi mới tiếc nuối, thương xót mẹ hiền. Nhiều người khi cha mẹ còn sống không cung phụng, cấp dưỡng chu đáu, chờ đến khi chết mới làm đám linh đình nói là báo hiếu cha mẹ. Người thật tâm cung kính và có hiếu là phải biết lo khi cha mẹ còn sống, giúp cha mẹ an vui, hạnh phúc khi tuổi già. Khi xưa chúng tôi hiểu biết sai lầm nên hơn nửa đời người sống trong đau khổ lầm mê. Nhờ mẹ đã giúp cho tôi vượt qua vũng bùn tội lỗi. Thất chí, bất mãn, buông lung, liều lĩnh, nghiện ngập, si dại trong đam mê tội lỗi và cuộc đời của tôi nếu không có mẹ bây giờ ra sao?

Ngày nay, nhờ tắm mình trong giáo pháp chư Phật, được sự trực tiếp chỉ dạy của chư hiền Thánh tăng, trên có Hòa Thượng Trúc Lâm tôn sư là vị Phật sống. Thầy chúng tôi là Bồ tát tái lai trụ trì Thiền viện Thường Chiếu, viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức với số chúng Tăng ni hơn cả ngàn người. Trên một ngàn là thiện hữu tri thức, còn tôi chỉ là hàng sơ cơ học đạo đang từng bước chập chững trên con đường Phật đạo, như người chết đi sống lại được Phật pháp cứu vớt. Với chút kinh nghiệm bản thân, chúng tôi có đôi lời tâm tình xin gởi đến các pháp lữ gần xa, những ai còn đang mải mê đắm say trong dòng sông tội lỗi, xin hãy cùng chúng tôi vượt qua cạm bẫy cuộc đời?

Trong khoảng thời gian bị đam mê nghiện ngập và nợ nần chồng chất không có khả năng chi trả, bế tắc khổ đau cùng cực, lại bị sự hăm dọa của chủ nợ, chúng tôi lo sợ khủng hoảng, không biết làm cách nào, cùng đường đành nghĩ đến giải pháp chết là hết cho xong chuyện, nghĩ vậy tôi liền trở về nhà thăm mẹ lần cuối. Nhờ vậy, tôi được mẹ khuyên đi tu và mẹ tôi đã khẳng định “đi tu sướng lắm con ơi”. Lúc đó, tôi nghĩ thầm trong bụng đi tu làm sao sướng, đi tu khổ thấy bà. Ấy thế mà, lời khuyên của mẹ đã rót vào tim tôi lúc nào không hay, tôi tự suy nghĩ lại, đi tu để khỏi phải chết, may ra còn chút hy vọng. Đêm hôm đó, tôi thầm cảm ơn mẹ, nếu không có mẹ giờ đây tôi đã bị đọa lạc vào chốn địa ngục A-tỳ, làm gì hôm nay có thời gian để cùng chia sẻ với các pháp lữ gần xa một chút tâm tình.

          Con tu là nhờ mẹ
          Cả cuộc đời thương con
          Không quản ngại thân gầy
          Công ơn mẹ khó đền.
          Mẹ là ánh trăng soi
          Xóa tan bao phiền muộn
          Mẹ cho con tất cả
          Bình yên tận cõi lòng.

Nhờ có môi trường tốt như thế nên tôi từng bước cố gắng vượt qua những thói quen xấu một cách dễ dàng và tu học cho đến bây giờ. Con người có đầu, mình và hai tay, hai chân để lao động, làm việc, phục vụ, dấn thân vì lợi ích nhân loại. Lao động để thấu rõ sự nhọc nhằn của đàn na tín thí, họ nhín ăn bớt mặc để cúng dường Tam bảo, mong Tam bảo luôn được trường tồn ở thế gian này để chúng sinh có nơi nương tựa và tu học. Nhờ có lao động mà chúng ta cảm thông được từ con người cho đến muôn loài, nếu muốn bảo tồn sự sống thì phải nương nhờ lẫn nhau. Lao động như ăn cơm, học hỏi như uống nước, tu sữa như hơi thở, lao động là lẽ sống thiết thực để phục vụ đời sống cho con người. Lao động đem lại giá trị đóng góp giúp cho con người ổn định nhu cầu ăn, mặc, ở, ngủ nghĩ được chu đáo. Lao động để hiểu được giá trị đích thực của nó để bào tồn sự sống, để được đóng góp và phát triển trong tình yêu thương nhân loại với muôn loài. Con người nếu không có lao động sẽ không tồn tại vì không đáp ứng đủ nhu cầu sự sống. Ngoài ra, lao động còn là phong cách rèn luyện cho cơ thể được điều hòa, làm cho tinh thần được minh mẫn, sáng suốt. Trong lúc lao động, chúng ta vẫn áp dụng tu tập được bằng những phương pháp trì niệm, và lao động là một nhu cầu sống không thể thiếu trong xã hội. Nhờ lao động chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông sự nhọc nhằn, cực khổ của nhiều người vì miếng cơm manh áo, vì sự sống của thân này mà chúng ta làm tổn hại biết bao loài vật khác, do đó mọi người cố gắng tu hành không dám ỷ lại.

Kho tàng vô giá của con người là nhờ làm việc, lao động, phục vụ, dấn thân vì cộng đồng xã hội; nhờ vậy nhân loại mới tồn tại. Nếu chúng ta sống trên cõi đời này mà không biết siêng năng, cần mẫn và bằng bàn tay khối óc luôn làm việc không biết mệt mỏi thì làm sao tìm được kho tàng vô giá nếu không có sự tinh cần nỗ lực lao động. Thiếu nó chúng ta dễ rơi vào sự hưởng thụ quá độ và làm băng hoại nhân cách đạo đức của con người, để rồi phải rơi vào hố sâu của đam mê, tội lỗi. Trong cuộc sống, muốn thăng tiến trên con đường công danh sự nghiệp để trở thành người hiền tài đóng góp cho xã hội thì mọi người phải cố gắng ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Học để biết lời Phật dạy, để biết được điều hay lẽ phải, biết được nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau. Cái hay của đạo Phật là khi nghe lời dạy của Ngài, Ngài không bắt buộc chúng ta phải tin liền mà cần phải có thời gian quán xét, chiêm nghiệm, tư duy cho đến khi nào thấy được lợi ích thiết thực rồi mới tin. Tin như vậy là tin sâu, tin khi trí tuệ đã được phát sinh. Trong nhà Phật thường dạy, “muốn thấu rõ chân lý thì phải văn-tư-tu; văn là nghe lời Phật dạy, sau khi nghe thì phải suy tư, quán chiếu, tìm tòi nghĩa lý sâu xa của nó; tu là biết cách dừng những nghiệp xấu ác, chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nên có bài thơ rằng:

         Lỗi lầm sám hối ăn năn
         Lấy làm hổ thẹn nguyện hằng sửa sai.
         Trong tâm nở một nụ cười
         Sống trong tỉnh giác tương lai sáng ngời.
    Và trong cuộc đời,
        Nếu ai chỉ lỗi cho mình
        Hãy nên kết làm tri kỷ
        Bởi có bạn hiền như thế
        Luôn làm tốt thêm cho ta.

Vâng, ít nhất trong cuộc đời ai cũng có thể có một lần lầm lỗi, nhưng được người chỉ lỗi quả thật là điều hiếm có. Đa phần chúng ta sống đắc nhân tâm nhiều hơn, do đó kiếm bạn đồng hành rất khó vì sự thật mất lòng? Trong cuộc sống, nếu chúng ta không có bạn hướng thượng, thà chấp nhận sống một mình còn hơn. Người xưa thường nhắc nhở con cháu phải biết chọn bạn mà chơi, bạn bè khá quan trọng ảnh hưởng đến việc nên-hư-thành-bại của đời người. Nhiều người công thành danh toại nhờ biết quan hệ tốt với bạn bè thân hữu, nhưng có một số người tán gia bại sản, thân bại danh liệt vì kết thân với một số bạn bè xấu. Trong kinh Phật dạy, “nếu không tìm được người hơn mình hoặc ngang với mình, thà quyết sống một mình chớ không nên kết bạn với người thấp kém hơn”.

Ai trong chúng ta chưa thật sự giác ngộ, giải thoát thì hãy nên dè dặt chọn bạn mà chơi, bởi giữa dòng đời nghiệt ngã tôi và bạn có thể gặp nhau nếu hai người cùng đi chung con đường hướng thượng, cùng nhau sẻ chia những nỗi khổ, niềm đau và chan hòa tình yêu thương. Bạn và tôi là chỗ trú ẩn cho nhiều người nương tựa. Có được một người bạn tốt như vậy quả thật chúng ta sẽ có một cuộc sống hết sức tuyệt vời. Còn ngược lại thì sao? Sẽ cùng nhau rơi vào hố sâu của đam mê tội lỗi và chúng ta sẽ chấp nhận một cuộc đời đen tối. Ai cũng có ước mơ đáng quý và trân trọng hết, nhưng vì lỡ lầm chọn bạn mê muội mà đành chôn vùi cuộc đời trong tối tăm, mờ mịt; và tôi và bạn sẽ nối kết tình thân với nhau trong một duyên tình cờ để rồi chúng ta cùng nhau kết nối tình yêu thương và sẻ chia những nỗi khổ, niềm đau trong cuộc sống. Chân thành thay!                            

         Tôi có ngã để cùng người thông cảm.
         Đem tình thương chia sẻ đến nhiều người.

 

Bao Hiem BSH
» Video
» Ảnh đẹp
» Từ điển Online
Từ cần tra:
Tra theo từ điển:
» Âm lịch