Hỏi: Kiến bất
năng cập là gì?
Trả Lời: Bốn chữ
“kiến bất năng cập”nằm trong một đoạn kinh văn trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, quyển thứ 2 trong bộ 10 quyển. Nguyên văn chữ Hán như sau:
“Thị cố A Nan! nhữ kim đương
tri: kiến minh chi thời, kiến phi thị minh; kiến ám chi thời, kiến phi thị ám;
kiến không chi thời, kiến phi thị không; kiến tắc chi thời, kiến phi thị tắc; tứ
nghĩa thành tựu, nhữ phục ưng tri, kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến; kiến do ly kiến, kiến bất năng cập...”
Dịch Nghĩa: Cư sĩ Tăng Phụng Nghi; Dịch giả: Thiền sư Nhẫn Tế:
"Cho nên,
Anan, bây giờ ông nên biết rằng:
Khi thấy sáng,
cái thấy chẳng phải là sáng.
Khi thấy tối,
cái thấy chẳng phải là tốị
Khi thấy
không, cái Thấy chẳng phải là không.
Khi thấy ngăn
bít, cái thấy chẳng phải là ngăn bít.
Bốn nghĩa đó
đã thành rồi, ông lại nên biết: khi Thấy mà có tướng Thấy, cái Thấy đó chẳng
phải là Tánh Thấỵ
Cái Thấy mà do
lìa tướng Thấy, đó là Tánh Thấy Siêu Việt (Kiến kiến chi thời, kiến phi thị
kiến. Kiến do ly kiến, kiến bất năng cập).
"Vậy thì
làm sao lại nói các tướng Nhân Duyên, Tự Nhiên hay Hòa Hợp ?"
Tông Thông
rằng:
Chỗ này Đức
Thế Tôn hiển bày Đệ Nhất Nghĩa Đế, cái
gọi là Con Đường Bồ Đề Nhiệm Mầụ Kiến và Kiến Duyên đủ năm thứ nghĩa: Sáng,
Tối, Hư Không, Ngăn Bít là bốn thứ; Kiến Duyên và Kiến Tinh (cái Thấy) là một
thứ Vọng Kiến.
Thế Tôn ở chỗ
này mà lựa ra cái Kiến Tinh chẳng phải là bốn thứ Sáng, Tối, Không, Bít. Lấy
bốn nghĩa này suy ra để rõ được cái Thấy lìa duyên trần mà vẫn tự có.
Ngay ở đây lại lựa ra cái Chơn Kiến (Tánh Thấy) soi rõ Kiến Tinh, là cái mà cái
Thấy không thể bì kịp. Đây chính là mặt trăng thứ nhất, cho nên cái Thấy vẫn
còn là vọng.
A ha ! Cái Chơn Kiến còn lìa cả mọi tướng thấy thì chỗ nào có hơi thở, bóng
dáng gì để theo đó mà mô phỏng ra nó ? Nói Nhân Duyên, nói Tự Nhiên, nói Hòa
Hiệp, há chẳng là hư vọng ư ?
Tổ Bá Trượng
hỏi vị tăng:
--"Thấy
không ?"
Đáp:
-- "Dạ,
thấy".
Tổ Trượng rằng:
-- "Sau
khi thấy thì như thế nàỏ"
Đáp:
-- "Thấy
chẳng có hai".
Tổ Trượng nói:
-- " Đã
nói là thấy thì không hai, tức là không lấy cái Thấy mà thấy nơi Cái Vốn Thấỵ
Nếu Cái Vốn Thấy mà trở lại thấy, thì cái Thấy trước là đúng hay cái Thấy sau
là đúng ? Như nói, "Khi Thấy mà còn có tướng Thấy, đó chẳng phải là
Chơn Kiến. Thấy mà do lìa tất cả tướng Thấy, cái Thấy ấy là Siêu Việt [ Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến. Kiến
do ly kiến, kiến bất năng cập). ]". Bởi thế, chẳng hành cái Pháp Thấy,
chẳng hành cái Pháp Nghe, chẳng hành cái Pháp Giác Ngộ, thì Chư Phật liền thọ
ký".
Lại nữa, kinh
Bảo Tích nói:
-- "PHÁP THÂN
chẳng có thể lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết mà tìm cầu.
Chẳng phải là
chỗ thấy của con mắt thịt, vì là không có Sắc.
Chẳng phải là
chỗ thấy của Thiên Nhãn vì không Hư Vọng.
Chẳng phải chỗ
thấy của Huệ Nhãn, vì lìa hình tướng. Chẳng phải chỗ thấy của Pháp Nhãn, vì lìa
các Hành. Chẳng phải là chỗ thấy của Phật Nhãn, vì lìa hết thảy Thức.
Nếu chẳng tạo ra các thứ Thấy như vậy, thì gọi đó là cái Thấy của Phật".
(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, tập 1, trang 252-254; Soạn giả: Cư sĩ
Tăng Phụng Nghi; Dịch giả: Thiền sư Nhẫn Tế (Tây Tạng Tự -- Bình Dương) Thành
Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh xuất bản 1997)
Bản dịch của Hoà Thượng
Duy Lực như sau:
- Ta thuyết những tướng nhân
duyên của thế gian chẳng phải đệ nhất nghĩạ A Nan, ta lại hỏi ngươi: người thế
gian nói "tôi thấy", vậy cho thế nào gọi là thấy, thế nào gọi là
chẳng thấy?
A Nan
đáp:
- Người thế gian nhờ ánh sáng
nhật nguyệt và đèn, thấy tất cả tướng gọi là thấy, nếu không có ba thứ ánh sáng
này thì chẳng thể thấy.
- A Nan,
nếu lúc không sáng gọi là chẳng thấy, thì chẳng thể thấy tối, nếu thấy tối chỉ
là không sáng thì sao gọi là chẳng thấy
- A Nan,
nếu lúc tối chẳng thấy sáng gọi là chẳng thấy; mà lúc sáng chẳng thấy tối cũng
phải gọi là chẳng thấy, vậy thì hai tướng sáng tối đều gọi là chẳng thấy
- Do hai tướng sáng tối tự đoạt
mất nhau, chẳng phải tánh thấy của ngươi tạm thời không có. Vậy thì cả hai đều
là thấy, sao nói chẳng thấy
- A Nan
nên biết, trong lúc thấy sáng, kiến tinh chẳng phải sáng; trong lúc thấy tối,
kiến tinh chẳng phải tối; trong lúc thấy rỗng không kiến tinh chẳng phải rỗng
không; trong lúc thấy ngăn bít, kiến tinh chẳng phải ngăn bít, bốn thứ nghĩa
này vốn sẵn như vậỵ
- Lại ngươi nên biết: Kiến
kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập, tại
sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp? Hàng Thanh Văn như các ngươi
trí kém tâm hẹp, chẳng thông đạt thật tướng trong sạch, nay ta dạy ngươi nên
khéo suy tư, hãy siêng năng tinh tấn, thẳng vào diệu đạo Bồ Đề.
Hoà Thượng Duy Lực lược giải:
Hai chữ Kiến Kiến tức là
bản kiến tự hiện, chẳng có năng kiến, sở kiến, Phật đã giải thích kỹ càng trong
quyển nhì này; nếu có năng sở, đều là kiến bệnh đã thành từ vô thỉ, có năng
kiến năng giác đều là bệnh. Vì bản kiến bản giác chẳng ở trong bệnh mới gọi là kiến
kiến, tức là kiến tánh. Tự tánh chẳng phải sở kiến, nên cũng chẳng có năng
kiến để kiến tự tánh, vậy lúc kiến kiến (Kiến kiến chi thời), dù nói kiến
nhưng chẳng phải là kiến (Kiến phi thị kiến), vì chẳng có năng kiến và
sở kiến, cho nên nói kiến còn phải lìa kiến (kiến do ly kiến), vì
Năng kiến chẳng thể thấy đến, nên nói Kiến bất năng cập. (Trích đoạn
Kinh Lăng Nghiêm, Hoà Thượng Duy Lực, Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ xuất bản 1990
trang 38-39
http://www.thuvienhoasen.org/khlangnghiem-02.htm
Hoà Thượng Thích Chơn
Giám Chùa Bích Liên giảng như sau:
Đây là Phật đem bốn cái Sáng, Tối,
Sắc, Không mà suy luận cho ông A Nan rõ ràng: vốn cái tánh thấy nó vẫn ly tất cả
bốn trần ấy thì đủ biết cái tánh thấy không thuộc về duyên sanh rồi.
Cái tánh thấy tuy không thuộc về
duyên sanh nhưng còn thuộc về nghiệp thức biến hiện , nghĩa là còn cách với
tánh diệu giác một từng, nên Phật mới nhân tiện phá nữa.
Đại ý nói rằng: Tánh ở trong
cái thấy, kêu là kiến tinh; tánh ly cái thấy ra, có thể thấy được cái thấy, cho
nên thấy sáng, thấy tối, thấy sắc, thấy không, mà cái thấy lại chẳng phải là
sáng, tối, sắc, không, vì đó là kiến tinh.
Vì kiến tinh mà nó còn ly duyên
thay, huống chi cái chơn kiến còn thấy được cả kiến tinh, như thế là nó đã xa
lìa kiến tinh ra rồi mà kiến tinh cũng không thể theo kịp được, thì há có lẽ
nào lấy các pháp hý luận là nhơn duyên, tự nhiên và hoà hiệp ấy mà vọng kể?
Chơn kiến là duyên theo cảnh
chơn như, lý trí in một, năng sở không chia, cho nên gọi là chơn. Còn kiến tinh
là duyên theo cảnh ở ngoài, do nơi nghiệp thức biến hiện, năng sở rõ ràng nên gọi
là vọng.
Trong lúc cái chơn kiến đã rõ rệt
thì quyết không có cái vọng kiến đối lập mà làm ra cái chỗ thấy, cũng như người
ngủ mê khi tỉnh thức rồi thì rõ biết cái trước đó là mộng.
Nếu đã biết là mộng, thì còn
đâu phải là mộng nữa, cho nên nói rằng: Đang lúc chơn kiến thấy vọng kiến thì
chơn kiến chẳng phải là vọng kiến.
Song phải hiễu rằng: Tại sao hồi
trước Phật lại hiển kiến tinh mà không hiển chơn kiến?
Vì thể chơn kiến rất tịnh, rất
diệu, mà tâm chúng sanh còn trược, còn thô, khó lãnh hội đặng, nên Phật mới mượn
kiến tinh mà hiển chơn kiến.
Nay Phật thấy ông A Nan và đại
chúng đã khai ngộ được nhiều, sợ nhận theo kiến tinh mà không rõ thấy được mật
ý của Phật, nên Phật mới trực chỉ chơn kiến không phải là cùng một thể với kiến
tinh. ... Phật khuyên ông A Nan và đại chúng phải đem hết nghị lực tiến thủ, do
nơi con đường chơn kiến ly kiến của Phật đã khai thị đó mà thẳng tới địa vị bồ
đề... (Trích đoạn:Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Sa Môn Thích Chơn Giám (Hoà Thượng Chùa
Bích Liên) dịch và chú giải, Linh Sơn Phật Học Nghiên Cứu Hội xuất bàn năm
1957, trang 139)
Chú thích:
Chúng ta nên để ý những từ kép
như: tánh thấy, cái thấy, kiến tinh, chơn kiến, kiến kiến, và vọng kiến:
Tánh Thấy =
Chơn Kiến
Cái Thấy = Kiến
Tinh = Vọng Kiến
Kiến Kiến = kiến
tánh (tự tánh tự hiện)
Chữ Kiến
Kiến, Hoà thượng Duy Lực giảng rằng: “Có người cho chữ kiến trước là năng,
kiến sau là sở, nhưng sự thật thì “Kiến Kiến” là kiến tánh, là cái kiến không
có bệnh, nay nếu dùng cái tri kiến có bệnh để thảo luận vấn đề này thì hết kiếp
này qua kiếp khác cũng không giải được. Tri kiến của chúng sanh là cái bệnh từ
vô thỉ đến nay, do con mắt bệnh mới thấy hoa đốm trên không, cho nên nói “Kiến
kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến do ly kiến, kiến bất năng cập”. Hai chữ
Kiến Kiến là tự tánh tự hiện, là kiến tánh, chứ chẳng phải có người dùng cái
năng kiến để kiến cái sở kiến.
(Duy Lực Ngữ Lục, Thành Hội PG
TP Hồ Chí Minh xuất bản 2000, trang 82)