ự tích 16 vị La-hán được chép
trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan
Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664)
dịch ra chữ Hán.
Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên
là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo
Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật
thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị
La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa
giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì
chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh. Mỗi khi các tự viện tổ chức lễ hội khánh
thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các Ngài cùng với quyến thuộc thường vận
dụng thần thông đến để chứng minh, tham dự, nhưng chúng ta không thể nào thấy
được. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này -
theo Pháp Trụ Ký - sẽ giảm dần còn 10 tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp
giảm. Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng, tuổi thọ con người từ 10 tuổi tăng dần
đến 70000 tuổi. Bấy giờ các Ngài sẽ chấm dứt nhiệm vụ và nhập Niết bàn. (Bởi vì
khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi thì đức Phật Di Lạc sẽ ra đời).
Danh tánh và trú xứ của các Ngài
như sau:
1. Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S:
Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại
Tây Ngưu Hóa châu.
2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S:
Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại
phương Bắc nước Ca Thấp Di La.
3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S:
Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại
Đông Thắng Thân châu.
4. Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn
giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bắc Cu Lô châu.
5. Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn
giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu.
6. Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn
giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đam Một La châu.
7. Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn
giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.
8. Phạt Xà La Phất Đa La (S:
Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát
Thứ Noa châu.
9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn
giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.
10. Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị
tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời 33.
11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn
giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.
12. Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị
tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.
13. Nhân Yết Đà (S: Angala), vị
tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng
Hiếp.
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin),
vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.
15. A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn
giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Thứu Phong.
16. Chú Trà Bán Thác Ca (S:
Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong
núi Trì Trục.
Sau khi Pháp Trụ ký được dịch sang
chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình
ảnh 16 vị A-la-hán. Tương truyền, nhân Thiền sư nằm mơ cảm ứng thấy được hình
ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này ngày nay người ta còn tìm thấy
tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật động tại Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung
Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ Pháp Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu
cũng chuyên vẽ về các vị La-hán.
Vì sao 16 vị La-hán trở thành 18
vị?
Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán,
các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài, và từ con số 16 người ta thêm
tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai
là tác giả đầu tiên của con số 18 này).
Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên
dịch nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La (tên phiên âm từ chữ Phạn),
người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu Lô chính là Tân Đầu Lô Bạt
La Đọa Xa2, vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Do khômg am tường kinh điển và
không hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế!
Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại
thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài văn ca
tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La-hán. Rồi họa sĩ Trương Huyền lại dựa vào
18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc tượng 18 vị La-hán, nhưng lại thay hai vị
17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Do thế mà từ con số 16 lần
hồi trở thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như Việt
Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công nhận, con số 16 chỉ
còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người
ta thêm Đạt Ma Đa La và Bố Đại Hòa Thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long và
Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc để thành ra 18 vị.
Ngoài ra, còn có hai sự tích khác
về 18 vị La-hán.
1. Sự tích thứ nhất được kể trong
tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ Hoằng Khai, trụ trì chùa Càn An,
tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851). Theo sách này thì nước Triệu có
nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành mộ đạo, nàng chuyên niệm danh
hiệu đức Phật A Di Đà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một đóa hoa sen vàng rồi hoài thai
đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan Âm hóa độ
và thọ ký để họ trở thành 18 vị La-hán.
Nội dung sự tích này khá lý thú,
tương đối có giá trị về mặt văn chương, nhưng cốt truyện lại pha trộn tinh thần
Phật, Khổng, Lão nên ít có giá trị về mặt lịch sử.
2. Sự tích thứ hai: tương truyền
ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm
cải tà quy chánh, nương theo Phật pháp tu hành và đắc quả A-la-hán.
Sự tích này tương đối có ý nghĩa,
nhưng lại có tính cách huyền thoại, do đó ít được người ta chấp nhận.
Tham
khảo:
- Phật Quang Đại Tư Điển, tr.359,
394, 4791, 6787;
- Phật học Đại Tư Điển, tr.
2844-2845;
- Pháp Trụ Ký, Hán tạng tập 49
tr.12;
- Phật Tổ Thống Kỷ, quyển 33, Hán
tạng tập 49, tr. 319;
- Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh,
Hán tạng tập 14, tr.421