Hỏi: Con thấy có những người Phật tử khi vào chùa làm công quả giúp cho
chùa, mà lòng họ còn quá nóng nảy sân hận. Họ hay la rầy người nầy,
trách móc người kia. Như vậy, có phải họ ỷ có công lao với chùa mà sanh
tâm ngã mạn khinh thường người khác hay không? Và như thế, thì làm sao
diệt trừ được tánh cống cao ngã mạn đó?
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
Ðáp:
Trong câu hỏi nầy, nếu phân tích thì
nó gồm có bốn vấn đề mà Phật tử muốn biết. Chúng tôi xin nêu ra từng vấn
đề một để tiện bề giải đáp, góp thêm chút ý kiến.
1. Vấn đề công quả:
Hai chữ công quả, thường có nhiều người
hiểu lệch lạc phiến diện về ý nghĩa của nó. Họ cho rằng, chỉ có những ai
tới chùa làm công kia việc nọ, giúp cho chùa, thì mới gọi là làm công
quả. Ngoài ra, làm những việc khác hay ở những nơi khác, thì không phải
là làm công quả. Hiểu thế, tuy không phải là sai hẳn, nhưng thực ra thì
chưa đúng ý nghĩa của hai chữ công quả. Vậy công quả nghĩa là gì?
Công:
nguyên là chữ Hán, nghĩa đen của nó là thợ. Là người bỏ công sức ra
chuyên làm một ngành nghề nào đó, thì gọi đó là công. Như nói công nhân
hay công phu. Công nhân là người dùng sức lao động của mình mà làm một
công việc nặng nhọc nào đó, hoặc bằng chân tay hay trí óc. Còn công phu
là người ( phu ) vận dụng năng lực làm một công việc, mang tính tinh
thần siêu thoát nhiều hơn. Như nói công phu tham thiền, công phu lễ bái,
niệm Phật v.v…
Còn chữ “quả” cũng là chữ Hán, nghĩa đen là
trái. Nghĩa bóng là thành quả hay kết quả của một việc làm hay lời nói.
Như vậy, hai chữ công quả, có nghĩa là khi chúng ta dùng sức làm một
công việc nào đó, tùy theo chỗ dụng công tốt hay xấu mà nó sẽ đưa đến
cái kết quả cũng có tốt xấu khác nhau. Nói gọn cho dễ hiểu, công là nhân
mà quả là kết quả. Hiểu như thế, thì đâu phải chỉ có tới chùa làm việc
giúp cho chùa mới là công quả, còn làm những việc khác, như tụng kinh,
lạy Phật, niệm Phật, dịch kinh ở nhà v.v… thì không phải là công quả hay
sao? Hiểu thế, thì chúng ta mới thấy nghĩa của hai chữ công quả rất
sâu rộng. Chúng ta có thể áp dụng hai chữ nầy vào bất cứ công việc nào
và bất cứ ở đâu. Không nhứt thiết chỉ có tới chùa mới gọi là làm công
quả. Đó chẳng qua chỉ là một tập quán thông thường mà lâu nay người ta
quen gọi như thế. Hiểu như vậy là chỉ hiểu một cách hạn hẹp và phiến
diện.
Điều quan trọng mà người Phật tử cần phải nhớ là khi làm
bất cứ việc gì và ở đâu, thì chúng ta cũng phải cẩn thận ở nơi ba
nghiệp. Nếu chúng ta làm với tâm loạn tưởng, si mê, sân hận nóng nảy…
thì kết quả chẳng những không có phước đức mà còn mang thêm trọng tội
nữa. Cái nhân ( công ) không tốt, thì thử hỏi cái quả làm sao tốt đẹp
cho được? Cho nên, khi bỏ công sức ra làm bất cứ điều gì, ta phải cẩn
trọng khéo gìn giữ ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý cho được nghiêm túc
trong sạch. Nhất là ý nghiệp. Nếu chúng ta không khéo gìn giữ trong khi
hành động hoặc nói năng, thì kết quả có khi sẽ trái ngược lại. Như một
người ra sức trồng cây mà không quan tâm chăm sóc kỹ lưỡng, thì kết quả,
cái cây kia sẽ không thể nào đơm hoa kết trái tốt đẹp như ý muốn được.
2. Nóng nảy sân hận:
Nóng giận là một tập khí lâu đời của chúng
sanh thật khó bỏ. Vì nó là một trong sáu món căn bản phiền não: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Trong sáu món nầy, thì ba món: “tham, sân,
si” trong Kinh thường gọi là tam độc. Đây là ba thứ độc tố nó có năng
lực rất mạnh thúc đẩy người ta tạo nhiều nghiệp ác. Kết quả, phải chiêu
cảm lãnh lấy nhiều quả báo khổ đau. Những thứ nầy còn gọi là Tư hoặc,
tức mê lầm ở nơi sự tướng sâu nặng. Người tu hành phải đến địa vị A la
hán mới có thể đoạn trừ hết được. Chúng còn có tên là kiết sử. Kiết
nghĩa là trói buộc, sử là sai khiến. Nghĩa là chúng có công năng sai
khiến người ta tạo những nghiệp nhân bất thiện, để rồi chúng trói buộc
người ta vào trong cảnh khổ. Chính vì chúng ta làm nô lệ cho nó sai
khiến, nên mới hiện ra tướng thô bạo nóng nảy la rầy chửi mắng v.v… Đó
là cường độ còn nhẹ, nặng hơn là đánh đập, đâm chém, bắn giết gây nên
cảnh chiến tranh tàn sát đẩm máu với nhau.
Trường hợp Phật tử
nào đó sân hận nóng nảy la rầy người nầy trách móc người kia, là vì Phật
tử đó không khéo tu ở nơi ba nghiệp. Mà gốc của nó là ở nơi ý nghiệp.
Do trái ý nghịch lòng mà nổi sân hận la ó kẻ khác. Nếu Phật tử khéo biết
gìn giữ chánh niệm trong khi làm việc, thì chắc chắn sẽ không có tình
trạng đó xảy ra. Vì thất niệm buông lung tâm ý nên mới có lớn tiếng la
rầy như thế. Cái nhân đã gây tạo như thế, thì cái quả chắc chắn là sẽ
không tốt đẹp rồi. Hiện tại, sẽ bị người ta thù ghét, không ai ưa, mà
tương lai cũng sẽ bị quả báo khổ đau. Như thế, thì việc làm của mình chỉ
là uổng công vô ích mà thôi. Thật là đáng thương tiếc lắm thay!
3. Cống cao ngã mạn:
Tính ngã mạn khinh người là con đẻ của lòng
chấp ngã quá nặng mà ra. Tâm sở phiền não căn bản nầy, cũng rất khó trừ
khó đoạn. Phải đến địa vị Tu đạo, tức quả vị A la hán mới có thể dứt
trừ. Nghiệp dụng của nó là luôn coi trọng mình mà thường khinh miệt kẻ
khác. Dù người đó thật sự hơn mình đủ mọi mặt. Nhưng vì chấp ngã tự ái
nặng nên họ không bao giờ thấy mình thấp kém hơn. Khi làm được một công
việc nào đó thành công, thì họ lên mặt cống cao hách dịch. Họ tự thấy
mình là người có công lao lớn, rồi khinh thường mạt xát kẻ khác. Đó là
họ đang mắc phải chứng bệnh “công thần” khá nặng. Bởi do thái độ mục hạ
vô nhơn đó, mà kết quả không ai ưa thích họ cả. Và từ đó mọi người sẽ xa
lánh ghét bỏ họ. Đó là hậu quả của lòng cống cao ngã mạn gây ra.
4. Làm sao diệt trừ
tánh cống cao ngã mạn?
Như đã nói, ngã mạn là một trong sáu món
căn bản phiền não, nên tập nhân gốc rễ của nó rất sâu dầy, không phải ai
cũng có thể dễ dàng diệt trừ nó được. Kinh nói, sự mê lầm nầy phải đến
địa vị Tu đạo mới dứt trừ được. Tập khí nầy nó có từ vô thỉ. Có mặt ta
là đã có nó. Vì thế, nó còn có tên gọi khác là “Câu sanh hoặc”.
Muốn
đoạn trừ nó, chỉ có cách là chúng ta phải gắng sức gia công nỗ lực tu
trì, mới có thể lần hồi trừ được. Điều quan yếu là chúng ta phải hằng
tỉnh giác, quán chiếu sâu vào bản chất của nó, để thấy rằng tự tánh của
nó là không. Chỉ khi nào đối cảnh xúc duyên, trái ý nghịch lòng, thì nó
mới phát khởi. Tuy vậy, nhưng nó vẫn luôn luôn ngấm ngầm tiềm tàng sâu
kín và hằng chi phối sai sử chúng ta một cách mãnh liệt. Nếu chúng ta
không đề cao cảnh giác, làm nô lệ cho nó sai khiến, thì hậu quả xảy ra
cũng rất là tai hại. Do đó, chúng ta cần phải có chánh niệm, chánh quán.
Có chánh niệm, thì chúng ta mới nhận diện nó một cách rõ ràng. Và như
thế, thì nó không thể nào gây tác hại cho chúng ta được. Đó là do ý chí
phấn đấu nỗ lực vận dụng công phu tu hành của mỗi người mà sự diệt trừ
nó có mau chậm khác nhau đó thôi.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)