Người
xuất gia ứng xử như thế nào trước những cảm xúc riêng tư bình thường trong cuộc
sống? Sau đây là kinh nghiệm thực tế của một người xuất gia ở hoàn cảnh đó,
được ghi lại trong bút ký ”Hoa ngọc lan”, nếp sống thiền môn, qua câu chuyện
giữa nhân vật “nhà chùa” – Tác giả và “nhà báo Bình” – Phật tử cư sĩ đang trăn
trở về một hướng sống tâm linh.
Nhà
giáo Bình đặt vấn đề. ‘Đời sống xuất gia của quý Thầy cách ly với đời sống phàm
thế, tui không biết tại sao quý Thầy có thể sống mà không nuôi dưỡng một giấc
mơ trần thế nào? – chẳng hạn như danh vọng, lợi dưỡng, tình cảm?”
-
Một số các cư sĩ khác cũng có thắc mắc như thế. Tôi nghĩ sống là sống với hiện
tại, mà không phải là ước mơ. Ước mơ thì đánh mất đi nhiều nguồn năng lượng của
sự sống.
Qua
sự dạy dỗ của Hòa thượng(*), chúng tôi đá trải qua một thời gian dài tu tập,
nay đã tự ổn định rằng: thực hiện “con đường” là sống, và sống là hạnh phúc. Sự
sống đang ở trước mắt, trong từng giây phút đang là.
Tôi
không giấu chuyện nhà chùa có trải qua nhiều hồi tâm lý dao động trước những
tưởng nghĩ về quá khứ và về tương lai. Nhưng dần dần, nhờ công phu thiền chi và
thiền quán, chúng tôi quyết tâm ngưng lại các tư duy mơ mộng đó. Kinh nghiệm tu
tập cho thấy sự nắm giữ các tưởng về danh, về lợi và về tình là khổ đau. Chúng
tôi phải chọn lựa sự đi ra khỏi chúng. Vì kinh nghiệm đó mà có khi chúng tôi
định nghĩa “sống là ra đi ” hay “sống là đi ra”.
Giờ
thì chúng tôi vẫn mơ ước, nhưng là mơ ước thực hiện “con đường”, nuôi dưỡng
giác tinh để chế ngự dục vọng. Gốc của rối loạn là dục vọng, mà không phải là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, hay nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt, thân, ý. Thế đấy!
-
“Nhưng đấy là nói chung chung. Cư sĩ này mong nghe nói về các sự kiện cụ thể,
chẳng hạn là mối liên hệ với người khác phái?”
-
“Có một số tu sĩ đã hoàn tục vì nhu cầu lập gia đình, sống đời sống gia đình.
Hẳn là các vị ấy có thể thực hiện giải thoát trong đời sống gia đình. Chúng tôi
thì ở lại với “con đường”, với nếp sống phạm hạnh. Kinh nghiệm vượt qua các đòi
hỏi về đời sống gia đình của chúng tôi thì đơn giản. Hằng ngày, chúng tôi dành
ít thời gian nhìn kỹ ruột già để thấy cái bất tịnh của toàn thân. Rồi nghĩ
rằng, có bao giờ mình mang lèm kèm theo mình một gói đồ bất tịnh, dù được bọc
gấm, hay đặt gói đồ đó trên giường ngủ? Thế mà hằng ngày mình phải chịu đựng
cái “gói đồ” của chính mình! Một gói đồ mà còn chịu đựng hết nổi, huống nữa là
hai! Chỉ nghĩ như thế là chúng tôi đủ giác tỉnh để đi qua.
Hẳn
là vấn đề tương giao tình cảm nam nữ không đơn giản có thế.
Trước
lúc xuất gia, năm 18 tuổi, tôi cũng có thấy thứ tình yêu thơ mộng ở trong lòng.
Không biết sao bỗng dưng tôi cảm thấy hổ thẹn và mắc cỡ về nó trước ý muốn xuất
gia.
Vào
chùa, tôi được giáo dục đối trị dục ái kỷ. Từ ấy, tôi rất nghiêm khắc với tự
thân trong việc tiếp xúc với phái nữ, nên tôi không phải vất vả trong việc làm
chủ nó. Thời gian cứ thế đi qua nhẹ nhàng trong việc nhiếp tâm tu học.
Ở
đại học, chúng tôi thường học chung và tiếp xúc với nhiều nữ sinh viên. Vẫn
thấy người ta đẹp mà lòng vẫn cứ tu. Vấn đề là ở trong thâm sâu lòng mình, chứ
không phải ở nhan sắc của phái nữ. Kinh nghiệm cho thấy nếu mình có quyết tâm
giải thoát thì mình sẽ có quyết tâm đốt cháy ái nghiệp (đốt cháy mà không phải
khóa chặt lại). Khi có quyết tâm đốt cháy điều đó, thì các nhan sắc chỉ còn tác
dụng làm đẹp cuộc đời.
Một
dạo, một nữ sinh viên rất lịch sự đã ngỏ ý có thương nhà chùa và không muốn
thấy nhà chùa kéo dài đời sống một mình. Nhà chùa hơi ngạc nhiên trước tình cảm
đó, nhưng không lúng túng, đã nói lời xin lỗi vì đã chọn con đường tu. Thế là
biến cố chấm dứt. Một dạo khác, một nữ sinh viên nước ngoài, học cùng lớp đã
ngỏ: “Tôi yêu thầy, thầy nghĩ sao?”. Tôi đã dể dàng nói lời cám ơn và xác định
một tu sĩ Phật giáo chỉ sống một mình. Cô ta ngạc nhiên không tin điều tôi nói,
và bảo: “Làm sao có thể sống vậy được?”. Tôi cắt nghĩa chẳng làm sao cả; nhà
chùa có niềm vui tu tập và thiền định. Thế rồi thôi.
Cả
hai lần giáp mặt tình cảm ấy, nhà chùa đã nhận ra nét dịu dàng và thu hút của
phái nữ, nhưng đồng thời cũng nhận ra khả năng chế ngự của tâm giác tỉnh.
Một
người bạn bảo tôi. “Thầy hãy coi chừng ‘tiếng Sét’! Thầy chưa gặp ‘tiếng sét’,
nên thầy chưa thấy cái nguy hiểm bất chợt của nó’. Sau đó, để cảnh giác, nhà
chùa tiếp tục công phu thiền chi và thiền quán. Càng nhìn lâu và nhìn kỹ cái
bất tịnh của tự thân và của người đời qua ruột già tiêu biểu, càng có khả năng
đối trị cái mà người bạn gọi là “tiếng sét”. Nhà chùa lúc ở một mình, thường
nhìn kỹ vào lòng mình và khởi niệm đốt cháy dục ái. Nói rõ là nổi lửa ly tham
để đốt cháy nó, Khởi tưởng như thế.
Khi
mà nhìn kỹ được cái chân tướng khổ đau của cuộc đời thì dục vọng tự tiêu, tiêu
đi dần. Khi mà lòng tin đặt vào con đường mạnh mẽ, thì dục vọng cũng chìm lặn.
Tôi tin rằng, nếu công phu thiền quán sâu, thấy rõ tướng giả hợp thực sự, thì
dục ái sẽ tiêu mất hẳn. Cả hữu ái vô hữu ái cũng thế. Đây chỉ mới là niềm tin,
mà chưa thực sự là kinh nghiệm đã đi qua rồi của tự thân. Ở đây tôi muốn nói
của tự thân.
Đó
là chuyện của nhà chùa. Còn cuộc phấn đấu giáp mặt của cư sĩ thì sao? Thầy quay
qua hỏi cư sĩ Bình.
-
Ấy! Nhà chùa đi ngõ ấy mà yên. Cứ vậy mà đi tới, đi tới cùng. Cư sĩ nghiệp
chướng này đã đọc nhiều Kinh sách, tiểu thuyết, đã sống thực và đầy trầm tư lắm
lắm. Gần như chuyện hư thật đã phân biện rõ ràng. Chuyện giải thoát cũng đã
hình dung ra. Vậy mà cư sĩ đã đi vào vì dục vọng thì nhiều mà vì thể nghiệm thì
ít, nên ngậm ngùi lắm! Khổ lắm! Biết là không có chi mà đến hai thứ tóc trên
đầu rồi vẫn như là có chi! Chuyện đó ma quái lắm! Nó vẫn hiện ra như một cái gì
xa xôi, thăm thẳm cứ chụp bắt lấy cư sĩ, không thoát được. Rồi cứ xúc động, cứ
lao đầu vào; rồi cứ ngậm ngùi!
Sau
nhiều năm tháng ngậm ngùi với nó, bỗng một tia sáng lóe lên trong lòng, lóe
sáng lên giữa cơn ngậm
ngùi. Càng lúc càng sáng ra. Đó là niềm tin của người giáp mặt. Sau khi nhìn
lui, nhìn tới, tính đi, tính lại, cư sĩ cân nhắc kỹ thấy rằng cứ cái đà sống
này thì chắc là phải luân lưu đến mươi lăm kiếp nữa mới yên.
-
Cư sĩ không nghĩ rằng với trí tuệ của cư sĩ thì có thể bát chợt đốt cháy nó
trong một cuộc giáp mặt ác liệt
nào đó không xa lắm không?
-
Tôi đâ tính cả rồi. Thế đó!
-
Đi đường nào rồi cũng “na ná” nhau hết cả; người ta sẽ nhận ra điều đó vào một
lúc nào đó trên cuộc hành
trình.
Xin
cư sĩ hãy dùng một tách trà cúc xanh với nhà chùa cái đã! Một tách trà ngậm
ngùi! và khó nói! Rồi cũng gặp nhau chỉ một chuyện Vô ngã, chuyện chấm dứt ngã
niệm, phải thế không nhỉ?
Làm
gì có hai chuyện? Như uống trà này, ngậm mà nghe thôi. Đi vào sự sống, cuộc
sống cũng gặp nhiều
chuyện ‘cứng lưỡi’, ‘cứng họng’!… Tiếp tục tuần trà, cư sĩ tiếp. Nhà chùa có
nghĩ rằng rồi Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ lập Tăng đoàn Tân Tăng không?”
-
Cư sĩ nghĩ sao, Việt Nam có giống Nhật Bản không?
Có
chuyện giống. mà cúng có chuyện khác. Tôi muốn nghe ý kiến của nhà chùa hơn.
Tôi
nghĩ rằng hoàn cảnh phát triển của Phật giáo Việt Nam thì khác. Căn cơ của
người Phật tử Việt Nam thì khác. Nếu xét về nhu cầu của tổ chức và của xứ sở
thì thật sự cần có đoàn thể Tăng-già phạm hạnh hơn. Bởi các cư sĩ nhiệt tình và
có khả năng có thể gánh vác các Phật sự của Tân Tăng.
Nếu
căn cứ vào kinh tạng truyền thống, thì vấn đề thiết lập giới luật là của Thế
Tôn, mà không phải của
Tăng già. Tăng-già chỉ có thể thay đổi các giới khinh, mà không thể thay đổi
các giới trọng.
Nhưng
nếu chủ trương phạm hạnh thì sẽ có ít người thực hiện được. Giáo hội cúng khó
xây dựng đúng
nghĩa?
-
Hẳn là thế. Nhưng “con đường” là thế, phải là thế. Tôi cũng chỉ nghĩ vậy thôi.
Đó là vấn đề của lịch sử.
Hãy chờ xem!
-
Sức mạnh của nhà chùa là những gì nhỉ? Nhà chùa phải có sức mạnh để chống chọi
lại với dục vọng, tà
thuật, tà kiến.v.v… chứ?
-
Sức mạnh của nhà chùa là Giới, là Định, là Tuệ, là Nhẫn nhục, là Tinh cần. Với
một tu sĩ có Giới, có Định, có Tuệ thì các dục vọng không thể chiến thắng được.
Với một tu sĩ có sức Tinh cần và Nhẫn nhục, thì sẽ thành tựu con đường sớm hay
muộn; và sẽ hoằng đạo đem lại nhiều lợi lạc cho đời.
(*) Trưởng lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất
Tăng thống GHPGVNTN (BTV).