Vì
Tăng Ni chính là đoàn thể tiêu biểu cho ý nghĩa thanh tịnh, luôn nêu
cao tác phong đạo đức của người xuất gia, xứng đáng là Tăng Ni mô phạm
của mọi người, bậc gương mẫu của bốn chúng, hướng đến giải thoát sanh
tử. Vì chưa phải là những bậc toàn thiện, toàn mỹ nên phải thể hiện sự
chơn tu qua phương pháp hành trì theo lời Phật dạy như: Niệm Phật – Trì
Chú hoặc Tham Thiền.
Ảnh: Bảo Thiên
Bước đầu xuất gia học đạo, tâm ý Tăng Ni rất thành kính mạnh mẽ và
cao thượng nên được Thầy thâu nhận, cho tập sự, dạy bảo rất chân tình.
Đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, thưa hỏi, xá chào, ăn uống, ngủ nghỉ đều
trong qui củ của thiền môn. Sau khi được cạo tóc xuất gia thì Thầy hoặc
những người đi trước chỉ dạy, đánh khánh, chuông, mõ, lời kinh tiếng kệ
cho đúng nghi thức, dạy chúng ta Tỳ Ni, oai nghi, cảnh sách.
Nếu muốn chuyên sâu rộng hơn nữa Tăng Ni được Thầy cho phép đến các
trường Phật học. Khi vào các trường, lớp Tăng Ni phải tuân theo qui củ
của trường, lớp. Tăng Ni vô trước Thầy giáo thọ vô sau, khi tan học Thầy
ra trước mình ra sau. Trong giờ học nếu Tăng Ni quay ngang, nhìn dọc
hoặc nói chuyện v.v … không chú ý lắng nghe giảng dạy thì được sự nhắc
nhở của ban giám thị. Khi được thọ giới thì có ban quản giới tử giám
sát, nhắc nhở khi có lỗi lầm, ban điển lễ chỉ bày lúc nào quỳ, khi nào
lạy. An cư kiết hạ thì giới luật và thanh quy nghiêm minh hơn sẽ đem đến
cho mình sự an lạc thù thắng hơn.
Từ sơ tâm học đạo cho đến trưởng thành, Tăng Ni chúng ta đã trải qua
những bước thăng trầm của cuộc sống, vui buồn đều có, cũng may mắn thay
Tăng Ni luôn luôn đều nhờ sự dắt dìu, đùm bọc, chở che của những bậc
Thầy cao cả, giới đức kim ưu.
Cổ đức thường dạy: Hổ ly sơn hổ bại, Tăng Ni ly chúng Tăng Ni tàn.
Cho nên, Tăng Ni lập hạnh quyết định nguyện trụ tòng lâm, tự viện vì là
nơi trang nghiêm thanh tịnh, chỗ tu học của người xuất gia đệ tử Phật,
là nơi hướng thượng của người niệm Phật, trì chú hoặc tham thiền, là nơi
giác ngộ của bậc hiền Thánh, chỗ kiến tánh của Tổ sư, những bậc tiền
bối Tổ Sư của chúng ta từ thập niên 20 - 30 của thế kỷ trước (XX) đứng
ra chấn hưng Phật Pháp, lợi ích hữu tình cũng xuất phát từ đây, là chỗ
an thân lập mạng của mỗi người tu nên phải quyết định thề nguyền dù tán
thân mất mạng cũng không rời khỏi chốn này. Nếu rời khỏi Tòng lâm, Tự,
Viện thì cô phụ hạnh nguyện, lập chí, quyết định thuở ban đầu của chính
mình thì bị nghiệp lực lôi cuốn trong lục đạo luân hồi. Bởi nơi đây đều
có các bậc thiện tri thức thấu rõ phương pháp tu hành hướng dẫn, truyền
trao cho Tăng Ni chúng ta thành tựu giới thân huệ mạng là nơi đào tạo
Tăng, Ni có đủ tài đức, đạo hạnh trang nghiêm để gánh vác Phật sự, lợi
ích chúng sanh.
Ví như, trong lòng đất có quặng vàng được khai thác lên nhưng chưa
xài được vì còn lẫn nhiều tạp chất, phải trải qua thời gian tôi luyện,
gạn lọc loại bỏ hết tạp chất mới dùng được. Nếu đem cất kỹ hay quăng bỏ
bất cứ nơi đâu cũng là vàng ròng.
Cũng vậy, Tăng Ni bắt đầu niệm Phật thì tâm còn nhiều tạp loạn, lâu
dần tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. v.v… được loại bỏ chỉ còn niệm
thiện thì tâm hay cung kính, bố thí, cúng dường, khiêm tốn với mọi
người. Đi, đứng, ngồi, nằm hằng niệm Phật không gián đoạn thì đạt đến
chỗ nhất tâm bất loạn, an trụ trong chánh niệm, chuyên sâu hơn nữa thì
sẽ đạt đến chỗ liễu tâm.
Tăng Ni có trì chú. Đi, đứng, nằm, ngồi không gián đoạn thì thân,
khẩu, ý được tương ưng, sở cầu được như ý, lợi ích chúng sanh. Nếu tiến
sâu hơn nữa thì cũng được liễu tâm.
Tăng Ni có tham thiền luôn đề khởi câu thoại đầu, có nghi tình thì
mọi tạp niệm sẽ bớt dần. Công phu được miên mật thì nghi tình sẽ thành
khối, cắt đứt được mọi vọng niệm, thình lình nghi tình tan vỡ thì tự
tánh tự hiện, thấu rõ được chính mình để làm chủ cho mình, đến đi tự
tại.
Dù niệm Phật, trì chú hay tham thiền đều phải đạt đến liễu tâm. Vì
thấu rõ được bổn tâm hay cứu cánh tâm thì sanh tử mới có phần tự do giải
thoát. Cũng chính vì nỗ lực công phu tu tập nên Tăng Ni được an trụ
trong chánh niệm. Do vậy giới luật không hề vi phạm, nên:
- Thân khi đi luôn ngay thẳng, mắt chẳng ngó liếc hai bên, ung dung tự tại.
- Đứng thì trang nghiêm, chân không kiểng, bên cao, bên thấp, tay không chống nạnh.
- Ngồi lưng thẳng , đầu ngay không chồm phía trước, ngữa phía sau,
không ngồi bó gối, không gác chéo, gác ngang, gác lên bàn, cũng không
nương tựa bất cứ nơi nào.
- Nằm theo thế kiết tường, nghiêng bên phải, luôn không sái thời.
- Khẩu không nói vọng ngữ, thêu dệt dù một việc rất nhỏ, không chưa
nói đã cười hoặc vừa nói vừa cười, luôn nói lời hòa nhã từ tốn với mọi
người, nói lời đúng như chánh pháp khiến cho mọi người kính tin Tam Bảo,
phát nguyện tu trì.
- Ý thường thấy lỗi mình - không thấy lỗi người, không khinh người sơ tâm học đạo. Vì luôn luôn có chánh niệm.
Do sống trong tòng lâm, tự viện, nương với đại chúng, mọi sinh hoạt
đều theo thiền môn thanh quy mà hành sự. Ban chức sự, thanh chúng giờ
nào việc đó, ai có bổn phận nấy.
- Giờ công phu: khi nghe hiệu lệnh, không trễ nãi, pháp phục nhẹ
nhàng trang nghiêm là tế hạnh, tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền
luôn hòa nhịp với đại chúng là tế hạnh, khi đi kinh hành chân bước nhẹ
nhàng ngay thẳng là tế hạnh.
- Giờ thọ trai: kéo ghế ngồi cũng như đứng dậy không gây tiếng động
là tế hạnh, không ăn mích lòng chúng là tế hạnh, không khua chén đũa,
vật thực rơi đỗ là tế hạnh.
- Giờ chỉ tịnh: ngủ, thức đều đúng giờ là tế hạnh, không loạn đơn, gây tiếng động cho người bên cạnh là tế hạnh.
- Giờ tắm giặt và vệ sinh: sinh hoạt cá nhân biết tôn trọng kính
nhường người là tế hạnh, tắm giặt không xối nước ồn ào trong phòng tắm,
phòng vệ sinh là tế hạnh. Rời khỏi phòng tắm, phòng vệ sinh luôn sạch sẽ
là tế hạnh. Phơi y phục không làm ước đồ đã khô của người bên cạnh là
tế hạnh. Biết tiết kiệm điện nước, vật dụng của thường trụ là tế hạnh.
Được sống trong đại chúng, thân cận với bậc minh sư theo thiện tri
thức nhắc nhở Tăng Ni giữ gìn giới luật đã thọ, tôn trọng thanh quy giúp
ích cho Tăng Ni chúng ta tăng trưởng đạo hạnh trang nghiêm, oai nghi tế
hạnh được vẹn toàn. Trong khế hợp với chân như, ngoài hiển bày được
phạm hạnh của người xuất gia.
Khi hội đủ nhân duyên ra ngoài xã hội tùy nghi giảng kinh, thuyết
đúng như chánh pháp, hoạt động từ thiện làm lợi ích chúng sanh, được mọi
người mến mộ oai nghi, tế hạnh của Tăng Ni trẻ họ sẽ quay về nương tựa
Tam Bảo, hộ trì chánh pháp khiến được lâu dài.
Thế là Tăng Ni đã lưu bố được dòng thánh pháp vào cuộc đời xuôi
ngược, làm an lạc chúng hữu tình. Phật pháp ngày mai có hưng thịnh hay
không! đều trông cậy vào Tăng Ni trẻ, lúc nói năng, động tịnh, tạo tác
thi vi, tu trì hoặc im lặng đúng như chánh pháp. Trên thì có thể đền đáp
được bốn ân nặng - Dưới có thể cứu giúp được ba đường khổ.
Ngày tháng qua mau nếu phạm hạnh không tròn, một khi mất thân người
rồi thì bị đọa lạc trong chốn tam đồ muôn kiếp khó được lại, Tăng Ni hãy
nỗ lực tinh cần hạ thủ công phu thì oai nghi, tế hạnh tự hiển bày, tâm
luôn an trụ trong chánh niệm mới mong có ngày giác ngộ giải thoát. Nếu
không được như thế thì Tăng Ni chúng ta chỉ là người phản bội lại chính
mình cũng là lạm dụng hạnh nguyện cao cả của người xuất gia.
HT. Thích Minh Hiền (GNO)