Phổ Hiền Bồ-tát
dạy nếu là người trí nên suy nghĩ những gì khi chết
mà mang theo được thì nên tích cực tu hành, cái gì không mang theo được thì bỏ lại
trần gian. Vì vậy, chúng ta cần quán tưởng tâm mình, vì chúng ta biết khi chết, mọi
thứ vật chất đều phải bỏ lại, tài sản, danh vọng, địa vị cũng bỏ.
Có người chưa chết nhưng đã mất địa vị xã hội
là đã
phải bỏ trước rồi, trước hay sau gì
cũng phải bỏ. Tuy nhiên, nếu nói tất cả đều phải bỏ, tiền tài, danh vọng, quyền lợi vật
chất cho đến cuối cùng cũng bỏ luôn cái mạng này thì quan tâm làm gì. Phật không dạy
chúng ta tu tiêu cực như vậy.
Thầy học kinh Pháp hoa với một giáo sư, ông nói
đạo
Phật đào tạo người cứu đời,
giúp người và phải làm lợi ích cho số đông, cho chư
Thiên và loài người. Phật tử cần cân nhắc tâm tưởng chúng ta làm sao dung hòa được việc làm lợi
ích cho người mà không bị dính mắc với thành quả, vẫn buông bỏ được.
Quán tưởng về tâm chúng ta, đầu tiên chúng
ta thấy có hai phần là phần chân và phần giả. Đương nhiên chúng
ta bỏ
phần giả, vì có giữ cũng mất. Nhưng phần chân tâm không bao giờ mất, vọng
thức thì mất. Quán sát tâm con người, ngài Thế
Thân nhận thấy có tám thức tâm vương và 51 tâm sở. Vì vậy,
chúng ta suy nghĩ, bỏ phần vật chất bên ngoài, hướng về tâm
quan sát, thấy có tâm vương và tâm sởđúng như ngài Thế Thân dạy. "Sở” là sở hữu, là lệ thuộc; 51 tâm sở là sở hữu của
tâm vương. Khối vật chất bên ngoài chúng ta không nói tới, vì chủ đề là tâm. Phật
dạy tâm là chủ, tất cả mọi việc do tâm quyết định. Tâm vương gồm có tám thức
là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na-thức và
A-lại-da-thức. Nhưng đối với 51 tâm sở lệ thuộc tám thức
tâm vương, chúng ta phải thực tập và chuyển hóa nó cho tốt, vì 51 tâm sở tác động mạnh đến cuộc sống,
nên chúng ta cần quan sát và điều chỉnh.
Trong 51 tâm sở có 6 căn bản phiền não, 20 tùy phiền não lệ thuộc 6 căn bản phiền não
là thế lực xấu và 11 thiện tâm sở. Phật dạy Tỳ-kheo tu hành, muốn đắc đạo, cái gì xấu ác đã sanh phải đoạn trừ,
cái ác chưa sanh thì ngăn chặn lại, không cho sanh, để hạt giống ác trong tâm mất hẳn;
đó là tâm xấu, không phải hành động xấu bên ngoài. Và cái thiện sanh rồi,
ráng nuôi lớn; cái thiện chưa sanh thì tìm cách tạo
cho sanh. Cho nên người tu ngồi yên, nhưng điều chỉnh tâm, vì Phật dạy tất cả mọi
việc do tâm quyết định, tâm quyết định lời nói, hành động của chúng
ta. Nếu thực tập pháp này, chúng ta bước chân vào
thế giới Phật, hay vào dòng Thánh, dù chưa là Thánh. Bấy giờchưa làm gì, nhưng thành tựu
được
như vậy,
trở thành người Hiền nghĩa là được mọi
người
nhìn mình có thiện cảm. Thực tập pháp này, ác trong lòng chúng ta đoạn, thiện
tăng trưởng thì mọi loài thấy chúng ta, lòng họ thanh thản và tiến
hơn một
bước,
họ quý mến ta.
Thật vậy, Phật tại thế, Ngài vào rừng ở, khỉ tìm đến dâng trái,
voi ôm bình bát của Phật xuống sông múc nước. Ở thời hiện đại, chúng ta
thấy những người thuần hóa thú vật là họ cảm thông với con
vật, thương yêu nó, tức thiện tâm
sanh, nên con vật cũng thương người chủ. Phát
xuất từ lòng tốt của con người mà cảm hóa được
người
khác, cảm hóa được loài vật. Và từ tâm tốt thể hiện
thành hành động tốt, làm lợi ích cho số đông, cho chư Thiên
và loài người. Điển hình như gần đây, Thủtướng
Lý Quang Diệu qua đời trong lúc ông không còn là Thủtướng,
nhưng người dân Singapore nghĩ về ông vô cùng thương tiếc với tất cả
tấm lòng. Trước kia, Singapore là một cảng của Mã Lai, diện
tích không bằng thành phố Hồ Chí Minh, nhưng ông về làm Thủtướng
một bán đảo nhỏ, chỉ một thời gian sau, ông đã nâng kinh tếnước
này lên tầng cao mới, thu nhập của người dân cao nhất
thế giới. Việt Nam mới nâng mức thu nhập của người dân thành
phố được khoảng một
ngàn đến hai ngàn đô một
năm. Trong khi người dân Singapore mỗi năm, họ có được bốn mươi ngàn đô một đầu
người.
Từ một nước nghèo, dân làm
thuê mướn ở bến cảng, nhưng đời sống của họ đã được
nâng cao vượt bậc. Rõ ràng ông Lý Quang Diệu thể hiện đúng lời Phật dạy
làm lợi ích cho số đông, nên ông được mọi
người
quý trọng. Khi kinh tế Việt Nam đổi mới, ông chủ trương đầu
tư vào Việt Nam xây dựng khu công nghiệp ở Bình Dương.
Trước
kia, thầy lên Bình Dương hoằng pháp, bố thí, giúp đỡngười
nghèo thì lúc đó, tỉnh này là một trong những tỉnh nghèo của Việt
Nam. Nhưng từ khi Singapore đầu tư vào tỉnh
này, đã giải quyết được việc làm cho người dân ởđây và cả những người không có việc làm ở miền Bắc, miền Trung cũng
vô làm ở khu công nghiệp Bình Dương. Vì vậy, với sự đầu
tư của
Singapore, tỉnh Bình Dương ngày nay trở thành một trong
năm tỉnh
có mức đóng góp cao nhất cho Nhà nước, cho nên dân Việt Nam cũng trân
trọng ông Lý Quang Diệu; Chính phủ, Quốc hội và Bộ Ngoại
giao nước ta đã đến viếng lễ tang và ghi vào sổ tang những việc làm tốt của ông đối với Việt
Nam.
Từ tâm tốt, ông Lý Quang Diệu đã thể hiện thành hành động tốt. Quý
vị tự nhận mình là Phật tử, nên soi rọi lòng mình xem mình có thật tốt
chưa. Đối với thầy, không nhất thiết là Phật tử,
nhưng phải là có tấm lòng giống Phật thì người
đó là bạn của chúng ta. Thầy nghĩ với quan điểm rộng, tôn giáo ở thế kỷ XXI kết hợp
được
những người tốt làm cho trái đất này sạch, đẹp, an ổn,
không còn là tôn giáo nói xấu nhau, giết nhau, giành giựt nhau. Theo Phật
cũng được, theo Chúa cũng được, miễn làm cho nhân loại sống
an vui, làm cho trái đất này trong sạch.
Tất cả chúng ta tự soi rọi tâm mình, quán sát lại tâm coi
điều
kiện nào tạo thành người tốt,
người
xấu. Ngài Thế Thân chia hai, tâm tốt và tâm xấu. Tâm xấu phải loại bỏ, tâm tốt
cần phát triển. Ngoài ra, còn có 24 bất tương ưng tâm sởlà nó luôn nghĩ ngược lại, gọi đó là phản ứng của nội
tâm, khi thì nó nghĩ như vầy, khi thì nghĩ ngược lại. Thí dụ
mình khởi niệm tốt, muốn làm việc thiện, nhưng lại suy nghĩ
có nên làm hay không và nó thường tìm lý do từ chối việc tốt.
Tâm ác nếu có, chúng ta phải cắt bỏ, chưa có thì đừng tập. Một
là lòng tham. Phật dạy cắt bỏ lòng tham, không phải cắt bỏ tài sản. Nhiều
người
tu hành bỏ tài sản, bỏ công ăn việc làm là sai lầm. Và khi lòng tham chúng ta
bỏ rồi, tài sản chúng ta có mất không. Có thể nói tài sản không mất, địa vị không mất,
đôi khi tài sản còn nhiều hơn, địa vị của chúng ta cao hơn.
Đừng
hiểu lầm theo hướng tiêu cực. Thời Phật tại thế, ông Cấp Cô Độc chuyên làm
việc thiện, đầu tiên là ông bình đẳng cúng dường,
cúng dường Sa-môn là đệ tử Phật và cúng cho Sa-môn ngoại đạo, cúng cho
Bà-la-môn mà ông gọi là hàng cao thượng
nên cúng dường.
Sa-môn từ bỏ quyền lợi cá nhân, lo việc chung, không phải
là người trốn đời, tiêu thụ. Sa-môn là nhà hiền triết không cần vật chất, công
danh để dấn thân làm lợi ích cho đời. Đức Phật là người đầu tiên làm
việc này, Ngài dạy đệ tử đến đâu phải làm lợi ích cho nơi đó, không phải
hưởng
thụ. Sa-môn sống độc thân để được tự do làm được nhiều việc
hơn, làm việc cao cả. Hàng Bà-la-môn là người trí thức học
rộng, hiểu nhiều, làm nhiều lợi ích cho xã hội, họlà thượng tầng kiến trúc. Xã hội nào có nhiều
người
trí thức, chắc chắn phải tốt và phát triển nhanh. Ông Lý Quang Diệu lên làm Thủtướng,
ông dùng tiền đào tạo nhiều trí thức. Lúc thầy ở Nhật, thấy nhiều
sinh viên Singapore qua Nhật học kỹ thuật để phát triển Singapore. Giới trí thức là vốn
quý nhất của dân tộc. Ngoài ra, người đi dạy đạo đức cũng giúp
cho xã hội tốt đẹp.
Giới
Bà-la-môn trí thức và
hàng Sa-môn đạo đức, hai thành phần này được coi như đỉnh cao phát triển
xã hội. Ông Cấp Cô Độc cúng dường những người này, không kỳ thị
là mình theo đạo Phật rồi chống đạo khác. Ngoài ra, còn có giới công
nhân thợ thuyền. Giới trí thức Bà-la-môn là người sáng tạo, còn thợ
thuyền trực tiếp tạo ra của
cải. Nếu giới công nhân thợ thuyền chịu ảnh hưởng của người đạo đức thì
họ trở thành người tốt thích làm cho người khác hưởng, không thích hưởng
của người khác. Những người sản xuất có được tâm niệm như thế sẽ tạo
cho xã hội phát triển dễ dàng.
(Còn tiếp)