Có lẽ không ít các bạn trẻ quan niệm
rằng đạo Phật chỉ dành cho những người lớn tuổi. Các bạn trẻ ấy nghĩ
rằng những người lớn tuổi vì đã “gần đất xa trời” nên phải lo chuẩn bị
tư lương cho cuộc hành trình sắp đến, còn tuổi trẻ thì cuộc đời còn
dài, đâu cần phải quan tâm đến chuyện sống chết làm gì.
Thật ra, đó không phải chỉ là quan niệm
của các bạn trẻ, mà ngay cả những người lớn tuổi cũng nghĩ như vậy.
Nhưng nếu chúng ta bình tâm mà xét thì sự thật không hẳn đã thế. Bởi
vì, chuyện sống chết không ai biết trước, cũng không ấn định cho một
loại người ở một lớp tuổi nào nhất định. Trên thế gian này, mỗi ngày có
biết bao nhiêu người trở về với cát bụi! Trong số những người ra đi ấy,
có biết bao nhiêu người ở tuổi thanh xuân! Sống chết là lẽ vô thường,
không hẹn cùng ai, không chọn lựa người và cũng không ai, trong số
những phàm phu vì nghiệp thọ sanh, có quyền chọn lựa.
Hơn nữa, đạo Phật không phải chỉ biết
lo cho mấy “bà già trầu” mà còn lo cho tất cả chúng sinh, trong đó có
các bạn trẻ. Sự thật lịch sử tồn tại của đạo Phật trên hai mươi lăm thế
kỷ nay đã chứng minh rằng: Nếu đạo Phật không thể đáp ứng được những
nhu cầu sai biệt và đa dạng của những hạng người trong các giai tầng xã
hội thì đạo Phật đã không thể tiếp tục được truyền bá cho đến ngày hôm
nay. Trong số các giai tầng xã hội ấy tất nhiên có thành phần trí thức,
có giới trẻ. Một sự kiện thú vị mà người viết có dịp đọc trên các báo
chí hải ngoại, xin kể cho quý độc giả nghe. Đó là mấy năm gần đây, tại
Hoa Kỳ, chính quyền đã mời chư Tăng thuộc nhiều sắc tộc, trong đó có
chư Tăng Việt Nam, vào giảng Phật pháp và hướng dẫn việc tu tập thiền
trong các nhà tù dành cho lớp tuổi thanh thiếu niên. Vì những vị chức
sắc này nhận thức rằng các pháp môn tu tập nhằm thanh tịnh hóa thân tâm
của đạo Phật sẽ giúp ích thật sự trong việc chuyển hóa những thanh
thiếu niên đang bị khích động bởi cuồng tín, bạo lực và vị kỷ để gây nên
tội ác. Phương thức ấy đã mang lại những thành tựu đáng kể, cho nên,
chương trình này vẫn được tiếp tục thực hiện. Trong một bản tin vào
cuối năm 2003, đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 đã được mời đến giảng Phật
pháp tại trường Võ Bị West Point, miền đông Hoa Kỳ. Hiện tại, trong
chương trình huấn luyện của trường này có thời khóa thực tập thiền cho
tất cả các sĩ quan thụ huấn.
Trở lại thực tế, đối với giới trẻ, đạo
Phật giúp ích được gì? Chiều kích của câu hỏi thì rất bao quát, cho
nên, người viết xin được phép tự giới hạn câu trả lời của mình trong
lãnh vực nhận thức mà thôi. Ở đây người viết xin đưa ra hai câu chuyện
về ngài La-hầu-la và Thiện Tài Đồng Tử, rồi từ nơi hai câu chuyện này
mà chúng ta tìm hiểu về phương cách đạo Phật giúp tuổi trẻ xây dựng nền
tảng nhận thức của mình ra sao?
Chuyện kể rằng, một hôm đức Phật đến
chỗ của Tôn giả La-hầu-la. Sau khi Tôn giả đem nước đến, đức Phật rửa
chân xong rồi hỏi Tôn giả:
- Này La-hầu-la, nước này có thể
dùng để uống được không?
- Bạch Thế Tôn, nước này vì rửa
chân, đã dơ, nên không thể uống được.
Đức Phật dạy Tôn giả La-hầu-la:
- Này La-hầu-la, nước sạch thì dùng
để uống và làm sạch các vật dơ khác, nhưng nước dơ thì không thể dùng
được. Cũng vậy, người xuất gia như ông, nếu không biết tu tập theo
Chánh pháp của Ta để gạn lọc trần cấu nhiễm ô nơi thân, miệng, ý, mà
dong ruổi theo thức tâm vọng động để làm động cơ cho ba nghiệp tạo tác
thì cũng như chậu nước dơ này, là hạng người bỏ đi, không dùng được
trong hàng ngũ Tăng già.
Tôn giả La-hầu-la xuất gia ở tuổi bé
thơ, mặc dù được gần gũi đức Thế Tôn, nhưng tánh khí tuổi trẻ vẫn còn,
cho nên ít quan tâm đến việc tu tập, chỉ thích đùa nghịch vui chơi, có
khi chọc phá cả những vị Tỳ-kheo Trưởng lão. Đức Phật vì vậy mà khuyên
dạy Tôn giả.
Tuổi trẻ nào cũng vậy, bản tính hồn
nhiên vui tươi, không thích bị ràng buộc trong khung thước, trong quy
luật. Là tuổi mới bắt đầu biết nhận thức, biết nhìn, nghe và hiểu các
pháp chung quanh, cho nên, tuổi trẻ thích những điều mới lạ, sáng tạo,
mạo hiểm, năng động, có khi dễ trở thành bạo động. Là tuổi có rất ít
kinh nghiệm đối với cuộc đời, không có nhiều từng trải đau thương, tủi
nhục, thất bại để làm bài học trui luyện, cho nên, tuổi trẻ ít có lòng
kiên nhẫn, chịu đựng, ít có quyết tâm và dũng lực để vượt qua những trở
ngại. Nhưng, tuổi trẻ có được một tiềm năng vô tận mà đời người không
phải dễ có lần thứ hai, đó là một tâm hồn trong sạch, một trí tuệ tươi
sáng, một khả năng thu nhận kiến thức dồi dào. Tuy nhiên, tâm hồn đó,
trí tuệ đó, khả năng đó nếu không biết cách hướng dẫn, chỉ dạy, phát
triển và sử dụng thì cũng rất dễ bị hoen ố, bị bôi đen, và bị lợi dụng
cho những mục tiêu xấu ác. Giống như chậu nước đã dùng để rửa chân, cho
nên, nước bị dơ, không còn trong sạch để dùng vào việc khác. Tâm trí
của tuổi trẻ mà bị dơ thì cuộc đời sẽ bị bỏ đi, không làm được điều gì
hữu ích cho mình và người.
Tâm trí bị dơ như thế nào? Có nhiều môi
trường mà tâm trí tuổi trẻ bị ô nhiễm. Ô nhiễm trong đời sống gia
đình. Ô nhiễm ở học đường. Ô nhiễm giữa sinh hoạt xã hội. Và ô nhiễm vì
mang thân phận của một chúng sinh.
Ở tuổi măng non, lúc đứa bé coi gia
đình là thế giới duy nhất của nó. Cái gì nó cũng lệ thuộc, cũng bị ảnh
hưởng bởi cha mẹ, anh em. Trong giai đoạn này, mỗi hành tác của người
thân có thể là một ấn tượng rất sâu sắc in đậm trong tâm trí và từ đó
có sức tác động, ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với cả cuộc đời của đứa
bé mà không ai hay. Những bảng thống kê về tình trạng hư hỏng của tuổi
trẻ đã cho thấy rằng hầu hết những em bé bất hạnh này đều lớn lên trong
các gia đình không hạnh phúc như cha mẹ thường xuyên gây gổ, bạo hành,
tình trạng ly thân, ly dị giữa cha mẹ.
Học đường là nơi giáo dục của tuổi trẻ,
nhưng học đường cũng là nơi làm ô nhiễm tâm trí để biến tuổi trẻ thành
công cụ phục vụ cho những mưu đồ của các tổ chức cuồng tín, các chủ
nghĩa, các ý thức hệ. Các nền giáo dục học đường thiên trọng vào việc
nhồi sọ các giáo điều, tín điều; các quan điểm cuồng tín, cực đoan, bạo
động sẽ là môi trường ô nhiễm trầm trọng nhất cho giới trẻ. Ngay cả nền
giáo dục chỉ chú trọng đến kiến thức chuyên môn khoa bảng mà không
quan tâm đến vấn đề đạo đức và phương thức làm người, cũng sẽ làm nhiễm
ô tâm trí của các em. Thảm trạng mà học sinh đem súng vào trường rồi
bắn giết bừa bãi đã và đang xảy ra tại Hoa Kỳ trong mấy năm gần đây là
một hiện tượng báo động. Tại một số nước Hồi giáo ở Trung Đông và Phi
châu, người ta mở trường học để đào tạo cho học sinh các tư tưởng chống
lại văn minh Tây phương, đào tạo lớp người xả thân vì “đạo” trong những
vụ khủng bố hoặc ôm bom tự sát mà chúng ta đã và đang chứng kiến mỗi
ngày trên các hệ thống thông tin toàn cầu.
Xã hội là môi trường sinh hoạt của con
người. Tuổi trẻ lớn lên, trưởng thành trong cái môi trường xã hội ấy.
Môi trường xã hội vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến tuổi trẻ. Nếu môi trường
xã hội bị ô nhiễm bởi những tệ nạn như tham nhũng, xì ke ma túy, rượu
chè, cờ bạc, nhà thổ, sida, và những hiện tượng tiêu cực khác thì tuổi
trẻ chính là nạn nhân bi thảm nhất. Với một môi trường xã hội ô nhiễm
bởi các tệ nạn thì tâm trí của tuổi trẻ tất nhiên cũng bị ô nhiễm theo.
Không những thế, tuổi trẻ chính là thành phần bị ô nhiễm nặng nề nhất,
bởi vì, tâm trí của tuổi trẻ còn non nớt, còn trong trắng cho nên
những tác hại của môi trường xã hội càng trầm trọng.
Tất cả những ô nhiễm trên đều bắt nguồn
từ sự ô nhiễm cơ bản nhất đó là sự ô nhiễm của chính thân phận chúng
sinh mà tuổi trẻ cưu mang, cưu mang từ đời này sang đời khác, từ cõi
này đến cõi khác. Bản chất của sự ô nhiễm mà một chúng sinh gánh chịu
không gì khác hơn là vô minh và các phiền não như tham, sân, si, v.v..
Do vô minh và phiền não trói buộc chúng sinh trôi lăn trong vòng sinh
tử luân hồi mà thân phận làm người hôm nay là một bằng chứng cụ thể.
Như vậy, một cách căn để, muốn làm sạch tất cả những ô nhiễm, tuổi trẻ
trước hết phải làm sạch vô minh và phiền não trong tâm trí. Bởi vì
chính những ô nhiễm của vô minh và phiền não trong tâm trí đã che mất
ánh sáng vi diệu của trí tuệ và đóng kín tâm hồn vốn thênh thang rộng
mở của tuổi trẻ. Đây chính là ý nghĩa qua cung cách mà đức Phật đã chỉ
dạy cho Tôn giả La-hầu-la phải gội rửa tâm trí để trở thành pháp khí
trong Tăng già như câu chuyện đã kể ở trên.
Nhưng bằng cách nào đạo Phật có thể
giúp làm thanh tịnh và khai mở tâm trí cho tuổi trẻ? Giải đáp cho câu
hỏi này chúng ta phải gợi lại câu chuyện về Thiện Tài Đồng Tử trong
kinh Hoa Nghiêm để làm chuẩn mực cho những suy nghiệm. Trong phẩm Nhập
pháp giới của Kinh Hoa Nghiêm kể chuyện về một chàng trai trẻ tên là
Thiện Tài có lòng muốn thăng hoa cuộc sống bình phàm vươn lên cảnh giới
siêu việt ra ngoài khổ đau phiền não. Chàng trai trẻ này đến đảnh lễ
Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi làm thầy để xin học đạo. Bồ-tát Văn Thù
nhân đó khai thị để cho chàng phát tâm Bồ-đề hướng đời mình lên mục
tiêu chí thượng. Rồi sau đó, ngài Văn Thù dạy chàng trai trẻ Thiện Tài
nên đi về phương Nam tìm gặp chư vị thiện hữu tri thức khác để thọ
giáo. Thiện Tài y chỉ lời Thầy dạy, cứ phương Nam mà đi trải qua 53 trụ
xứ và được thọ học với 53 vị thiện tri thức, từ Tỳ-kheo Đức Vân,
Bà-la-môn Thắng Nhiệt, Đồng nữ Từ Hạnh, vua Vô Yểm Túc, v.v…, đến
Bồ-tát Di Lặc và sau rốt là Bồ-tát Phổ Hiền. Một quá trình học và thực
nghiệm đạo để thể nhập vào pháp giới tánh, khởi đầu với đại trí và kết
thúc với đại hạnh.
Bản chất ô nhiễm của vô minh và phiền
não đã quá sâu dày vì bắt nguồn từ chuỗi vận hành của sinh tử mà không
còn biết đâu là điểm khởi đầu, cho nên, muốn rửa sạch được chúng thì
ngoài nguồn nước thanh lương bất tuyệt của trí tuệ siêu việt ra không
còn cách nào khác. Ở đây chúng ta thấy rằng tuổi trẻ điều cần thiết và
quan trọng nhất là cần phải khai mở và phát huy trí tuệ bằng con đường
học tập, học tập tất cả những kiến thức chuyên môn thông dụng. Nhưng
học không có nghĩa là biến mình thành một cái đãy đựng chữ nghĩa, chỉ
biết suy tư theo chiều kích giới hạn của những phạm trù khái niệm hay
luận lý mang tính nhất nguyên, nhị nguyên, hay đa nguyên. Hoặc nguy hại
hơn nữa là biến cái học thành một thứ sở tri, chỉ biết xây dựng thành
trì kiên cố cho một hình thái ngụy trang đầy giả tạo của bản ngã. Dạng
thức của hai điều vừa đề cập trên chính là con đẻ của tri thức thường
nghiệm, hoàn toàn không có khả tính siêu việt để vượt lên trên mọi trói
buộc có khi thật vi tế của vọng tâm chúng sinh vốn là cội nguồn của bất
an và khổ não. Cho nên, trí tuệ giác ngộ thì vượt thoát, còn tri thức
thường nghiệm thì bị trói buộc. Tất nhiên, vượt thoát không có nghĩa là
trốn chạy, vì trốn chạy thì không thể nhìn thấu suốt được bản chất của
các pháp. Chính vì vậy mà trên đường học đạo của mình, Thiện Tài Đồng
Tử luôn luôn được chỉ dạy các pháp môn vi diệu để khai mở tâm trí, rằng
học rất nhiều nhưng trong cái học mênh mông bát ngát ấy lúc nào cũng
hàm chứa và lưu lộ một thứ nội lực thù thắng, chuyển hóa mọi sở tri
thành trạng huống liễu tri vượt thoát.
Sở dĩ được như vậy là nhờ sức gia trì
của đại hạnh. Đại hạnh chính là năng lực của sự thực nghiệm trí tuệ
trong từng giây phút của đời sống. Thực nghiệm bằng cách nào? Bằng sự
lắng nghe vạn pháp với tâm bình thảng không một chút thành kiến, định
kiến, thiên kiến, rũ bỏ mọi tham dự của tất cả những hậu cảnh tâm thức.
Bằng sự tư duy mọi hiện tượng với nhất tâm sâu lắng không một chút tạp
tưởng, loạn tưởng, điên đảo tưởng, mộng tưởng.
Bằng tâm thức trong sạch hết những nhiễm
ô, tuổi trẻ đi vào đời với đôi mắt sáng của trí tuệ, với tấm lòng rộng
mở của thương yêu, với đôi chân thực nghiệm vững vàng những điều mình
đã học và sau cùng với đôi tay khả năng vi diệu phát ra từ nội lực thân
chứng để kiến tạo tịnh độ nhân gian.
Nguồn: Tập san Pháp Luân số 06