Khi trình bày
những giáo lý như thế cho giới trẻ, chúng ta có
thể sử dụng những phương tiện
về tri thức khoa học để giải thích
nhằm tạo ra niềm tin đúng đắn phù hợp
với tri thức thời đại, nhưng cũng chú
ý để đừng quá sa đà diễn giải mà thành
ra chỉ tôn thêm vẻ hào nhoáng của khoa học kỹ
thuật...
Có người đã nói với
chúng tôi rằng, nếu đức Phật còn sống cho
đến hôm nay, ngài sẽ nói chuyện như thế nào
trong các trường đại học, các viện nghiên
cứu khoa học, và trước đông đảo
quần chúng tri thức hiện nay? Ngài sẽ nói như
thế nào cho phù hợp với giới trẻ tuổi
ngày nay nhằm giúp họ học hiểu và hành trì giáo lý
để thực sự có lợi ích? Chúng tôi đã nói
rằng đó là một ưu tư cần phải
đặt ra, nhưng công việc của đức
Phật đã hoàn tất từ lâu, và bây giờ ngài
vẫn đang tiếp tục, sự tiếp tục
đang diễn ra bởi những đệ tử
của ngài, những người hoằng pháp, đi theo
gót chân đức Phật để chuyển tải
đạo lý vào cuộc đời nhằm dựng
lại những gì đã đổ vỡ, xiêu vẹo, bật
đèn trong đêm tối và làm cho cuộc đời
tươi đẹp hơn, đúng như bản hoài
của Ngài. Người đặt vấn đề
đó đang có một ưu tư về vấn
đề làm thế nào để giáo lý đức
Phật thực sự có ảnh hưởng đến
nhận thức của giới trí thức, những
người trẻ tuổi hôm nay. Bởi không ai không
biết rằng chính tuổi trẻ là tương lai
của một dân tộc nói riêng và của toàn thế
giới nói chung. Họ là những người đang và
sẽ gánh vác vận mệnh của đất
nước, của thế giới trong hiện tại và
tương lai.
Chúng ta biết rằng nhận
thức của con người đã trở nên tiến
bộ và khác hơn ngày xưa rất nhiều nhờ
sự tiến bộ về tư tưởng, khoa
học, triết học và xã hội học. Trong sự
tiến bộ chung ấy nhận thức về tôn giáo
của con người cũng thay đổi theo chiều
hướng tiến bộ. Mà tôn giáo là cần thiết
cho con người. Vì vậy chúng ta phải có bổn
phận thúc đẩy sự tiến bộ của con
người về nhận thức tôn giáo, khiến cho tôn
giáo luôn giữ được vai trò nuôi dưỡng và
phát triển tâm linh của con người và đừng
bao giờ trở nên những chướng ngại,
những thành kiến cố chấp và cuồng tín,
cản trở sự tiến bộ và giải phóng con
người toàn diện.
Tuy nhiên cho dù nhận thức
của con người về tôn giáo có thay đổi
thế nào đi nữa, những nguyên lý của Phật
học cũng không bao giờ thay đổi. Chúng ta
quyết chắc như vậy, vì những nguyên lý ấy
cũng chính là những nguyên lý thường hằng
của vũ trụ vạn hữu. Pháp ấy dù
đức Phật có nói hay không nói nó vẫn luôn có đó.
Đức Phật nói ra là bởi sự giác ngộ
của Ngài và vì lòng thương xót chúng sanh nên nói ra
để thay đổi những nhận thức sai
lầm của chúng sanh. Chính những sự sai lầm
trong nhận thức về cuộc đời đã làm
cho chúng ta đau khổ. Đời là vô thường mà
chúng ta cho là thường, đời là vô ngã mà chúng ta cho
là có ngã, nên sinh tâm tham nhiễm, vướng mắc và
bị trói buộc. Những nguyên lý hằng hữu ấy
kinh Pháp Hoa nói: “Thị pháp trụ pháp vị, Thế gian
tướng thường trú”. Pháp trụ ấy, pháp
vị ấy luôn luôn thường trú trong các pháp thế
gian. Những pháp như vô thường, vô ngã, vô
tướng, duyên sinh, nhất thừa thật
tướng, là những thuộc tính của pháp thế
gian. Nhìn sâu vào trong lòng của sự vật với con
mắt quán chiếu, chúng ta có thể thấy
được nó. Một kinh khác đức Phật
lại nói, “người nào thấy được tính
không tướng của các tướng tức là thấy
được Như Lai.” (Kinh Kim Cương). Nói như
thế để thấy rằng những nguyên lý
Phật học không bao giờ thay đổi cho dù mọi
thứ có thể thay đổi. Vấn đề là chúng
ta làm sao để trình bày những giáo lý ấy cho phù
hợp với nhận thức của con người
hiện đại.
Đức tin là nền tảng
của mọi sự thành công trong đời. Mất
niềm tin có nghĩa là mất đi cả ý nghĩa
sống. Sống có nghĩa là tin vào một cái gì đó
để phấn đấu và tiếp tục sống.
Sống chứ không phải chỉ là tồn tại.
Nhưng niềm tin ấy sẽ hướng dẫn con
người ta sống như thế nào, vô nghĩa hay
đầy ý nghĩa, lương thiện hướng
thượng hay tàn ác và xuống dốc. Hoằng pháp
với tuổi trẻ phải hướng dẫn cho
họ một lối sống có niềm tin và hướng
thượng. Giúp cho họ thấy được tính
nhân bản và tự chủ của chính họ mà không
phải do ai áp đặt hay bắt buộc. Mọi
thứ đều để cho họ tự nhận
thức và quyết định lấy.
Chẳng hạn khi nói về Vô
thường và sự thật về khổ của
cuộc đời, ngày xưa đã có nhiều nhầm
lẫn ở điểm này và cho rằng đạo
Phật là bi quan, yếm thế. “Đời là vô thường
nên tôi chẳng muốn làm gì hết, làm có đó rồi
cũng mất đi thôi thì làm để làm gì”; khi nói
đời là bể khổ mênh mông không bờ bến, thì
người ta mất luôn niềm tin yêu đối
với cuộc sống. Thành kiến này vẫn còn lưu
dấu khá đậm vào thời đại chúng ta.
Những tác phẩm văn học cũng đã tiếp
tay cho nhận thức này của con người về
Phật giáo (hẳn chúng ta cũng sẽ vận dụng
lĩnh vực văn học để sửa lại
nhận thức sai lầm này, té ở đâu thì chống
ở đó để đứng dậy). Người ta
đâu để ý một khía cạnh thực tế và
rất khoa học của tính chất Vô thường.
Không có vô thường thì thực sự không thể quan
niệm thế nào là sự sống. Hạt lúa mới gieo
xuống ruộng ngày hôm qua, hôm nay đã nảy mầm và
rồi với những điều kiện đầy
đủ nó sẽ cho những hạt thóc lúa trong ngày mai.
Không có sự thực về Vô thường thì không có
tiến trình vận động đó. Niềm khổ
đau của tôi hôm nay đang có mặt đó, tôi
biết, nhưng không hề tuyệt vọng bởi nó sẽ
ra đi, vô thường mà. Như vậy đâu phải
do sự thực vô thường làm cho người ta
khổ mà chính do sự chấp chặt của chúng ta.
Nhận thức về vô thường sẽ cho ta một
niềm tin rất tích cực vào sự biến chuyển
của cuộc sống.
Khi trình bày những giáo lý như
thế cho giới trẻ, chúng ta có thể sử dụng
những phương tiện về tri thức khoa
học để giải thích nhằm tạo ra niềm
tin đúng đắn phù hợp với tri thức
thời đại, nhưng cũng chú ý để
đừng quá sa đà diễn giải mà thành ra chỉ
tôn thêm vẻ hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Khoa
học kỹ thuật luôn có sự hạn chế
nhất định của nó, nó chỉ là tương
đối. Trong sự trình bày đó, luôn phải
để ý đến khía cạnh thực tế của
đời sống. Mục đích của đạo
Phật là nhằm giải thoát chứ chẳng phải là
trói buộc con người vào những hý luận vô
bổ.
Bây giờ, chúng ta nói đến
khía cạnh khổ đau của Phật giáo. Đạo
Phật nói về khổ đau như một chân lý
hiển nhiên của cuộc đời. Bài thuyết pháp
đầu tiên đức Phật nói ngay đến
vấn đề khổ đau. Đó là một sự
thực nên chúng ta không thể không nói đến. Nó
đúng cho tất cả mọi thời. Không phải
chỉ đúng với ngày xưa, còn hôm nay xã hội phát
triển nên nó không còn đúng nữa. Nếu mở
mắt ra chúng ta có thể thấy xã hội ngày nay cũng
đầy dẫy những khổ đau và thậm chí còn
nặng nề hơn nữa là khác. Nhưng chúng ta
phải nói cách nào để đánh thức dậy ý
thức của giới trẻ về khổ đau.
Đó là bổn phận của người hoằng pháp.
Người trẻ ngày nay sự thực đang ngủ
mê và đi theo tiếng gọi của sự phát triển
và hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Họ
cần có một sự trợ giúp.
Theo tôi, ý thức về khổ
đau là vấn đề quan trọng, từ đó có
thể bàn đến những vấn đề khác
thuộc về cá nhân và xã hội. Phải thấy được
bệnh trạng, thấy được sự nguy
hiểm của những nguyên do khổ đau thì mới
có ý thức giải thoát khổ đau một cách hữu
hiệu, chứ không phải là sự chạy trốn
trong cơn mê ngủ. Ý thức về khổ đau và
hạnh phúc của chính mình cũng là nền tảng
để nói đến việc bảo vệ hạnh
phúc của kẻ khác đồng thời giúp người
bớt khổ.
Chúng ta quằn quại trong đau
khổ, hốt hoảng như ở trong ngôi nhà đang
cháy, chịu đựng nhiều sự bức bách và não
loạn không phút ngơi nghỉ. Đạo Phật không
chịu đi vào huyền đàm, hý luận những
vấn đề siêu thực mà luôn ý thức quay trở
lại nhận diện và giải quyết những
vấn đề thực tiễn trước mắt
đang làm cho con người điêu đứng. Mũi
tên độc phải được nhổ ra để
băng bít và chữa lành vết thương chứ không
ngồi đó truy tìm những nguyên nhân, những
động cơ của kẻ bắn mũi tên. Phải
nhận diện cho được cái khổ đau
của mình và của nhân loại. Đó là phương châm
hành động hữu hiệu và thực tiễn
nhất. Nếu không biết ta đang mắc bệnh gì
thì làm sao có thể nói đến việc chữa lành? Có
thể nói rằng lý tưởng giải thoát phải
được nuôi dưỡng bằng ý thức về
khổ đau. Bởi vì rõ ràng nói đến giải thoát
thì phải giải thoát đối với cái gì. Khi chúng ta
còn thấy được nỗi khổ niềm đau của
mình và của người khác thì chúng ta còn có ý
hướng muốn thoát khỏi những kiềm
tỏa, thiêu đốt.
Ý thức về khổ đau luôn
gây cho chúng ta có một xót xa trong nội tâm. Đây cũng
là một điều cần thiết để nói
đến các vấn đề luân lý đạo
đức của con người. Bao giờ anh không còn
thấy xót xa trước nỗi đau của mình
cũng như của người khác, bấy giờ luân
lý đạo đức không còn được
đặt ra nữa và như vậy cuộc sống loài
người sẽ như thế nào?. “Nếu chúng ta có
thể tăng cường khả năng sự nhạy
cảm trước nỗi đau của người
khác, thì càng nâng cao, ta lại càng ít chịu đựng
được khi nhìn thấy nỗi đau của
người khác và càng chú trọng bảo đảm
mọi hành động không tác hại con người”
(đức Đạt-lai-la-ma, Đạo Lý Thiên Niên
Kỷ). Vì thế, chúng ta không ngại nói đến
vấn đề khổ đau đối với
người trẻ, nhưng cũng phải khéo léo
để họ có thể chấp nhận
được một cách tích cực, và đặc
biệt là để thức tỉnh. Chẳng hạn chúng
ta nói về năm giới quý báu của người
Phật tử có thể nói rằng nó có giá trị luân lý
vượt thời gian. Giới luật của Phật
là sự tự hạn chế các động cơ và tham
vọng tác hại. Nó có thể làm phát triển và bồi
dưỡng cho đức từ bi, nhằm bảo
vệ hạnh phúc con người, đưa con
người đến giải thoát thực sự.
Năm giới của người Phật tử
được xây dựng trên ý thức về khổ
đau của đời người. Ngày xưa, có
lẽ vì để cho dễ nhớ, và vì sự hạn chế
về phương tiện chuyển tải văn bản
mà năm giới chỉ được trình bày ngắn
gọn bắt đầu với chữ “không” (không sát
sanh, không nói láo, không trộm cắp, không tà dâm, không
uống rượu). Nói như thế có thể
người ta nghĩ rằng đó là những bắt
buộc, áp đặt đối với tín đồ.
Chúng ta có thể trình bày khác đi một chút về hình
thức với sự tham gia của nhận thức
của người nghe, người đọc chứ
không thuần túy là những điều cấm kỵ.
Chúng ta có thể nói: “vì ý thức được
những khổ đau do sự sát sanh, không tôn trọng
mạng sống của con người và vạn vật
diễn ra chung quanh, trong xã hội tôi và trên thế
giới mang lại... Nên tôi phát nguyện không sát hại
sinh mạng của bất cứ ai, nguyện tôn trọng
và bảo vệ sự sống, bảo vệ các loài sinh
vật và môi trường...” Hay về giới Không
được uống rượu, chúng ta cũng có
thể nói: “vì ý thức về những khổ đau do
uống rượu, các chất ma tuý và các chất gây say
nghiện gây ra cho tôi cũng như cho gia đình và xã
hội, tôi nguyện không uống rượu và tiêu
thụ các chất độc tố cho cơ thể, ý
thức về những tiêu thụ của bản thân sao
cho lành mạnh vân vân”.
Ý thức có nghĩa là thức
tỉnh, mở con mắt ra để nhìn thực
trạng của gia đình và xã hội. Năm giới có
thể là bài học suốt đời nhằm nuôi dưỡng
và phát triển hạnh phúc của xã hội và gia đình.
Cũng đề tài cũ kỹ ấy nhưng cách trình
bày phải mới để thích nghi với nhận
thức của mọi người, đặc biệt là
giới trẻ. Trình bày giáo lý về duyên sinh, vô ngã, vô
thường trong thời đại này là cần thiết
để người ta có thể hiểu
được mối liên hệ giữa mình với
thế giới chung quanh. Vạn vật đều
sống trong mối tương quan tùy thuộc vào nhau.
Không có một ai, một sự vật gì tồn tại
độc lập. Hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, lý
tưởng đều nằm trong mối tương
quan nhân duyên ấy. Trong giáo lý tương tức, cái này có
tùy thuộc vào cái kia, hạnh phúc và khổ đau không
phải là vấn đề của riêng ai, nó là vấn
đề của toàn thể mọi người, luôn có
sự liên hệ giữa mình với người khác,
với cả những lá cây ngọn cỏ. Từ đó
nói đến vấn đề bảo vệ môi
trường sinh thái, môi trường xã hội, những
vấn đề hết sức nóng bỏng của
thời đại. Xây dựng một môi trường
tốt trong đó có mình đang sống. Cũng trong
mối liên hệ, chúng ta nói đến các vấn
đề đạo đức trong gia đình với cha
mẹ, những người thân trong quan hệ huyết
thống. Nói đến mối quan hệ trong học
đường với thầy, bạn, nói đến
mối quan hệ xã hội. Và nói đến mối quan
hệ trong tôn giáo, là mối quan hệ trong quan hệ
của gia đình tâm linh. Con người luôn có gốc
rễ của mình trong nhiều mối quan hệ mà chúng ta
có thể thấy rõ nhất là mối quan hệ trong gia
đình huyết thống và gia đình tâm linh. Thân hợp
thể năm uẩn của mỗi người
đều là sự kế thừa đầy đủ
của hai dòng sống tương tục đó.
Đạo Phật đã đi vào trong lòng dân tộc, và
đã làm cho dân tộc ta trở nên một dân tộc
thuần từ văn minh, có thủy có chung, có nhân có
hậu. Vì thế, giáo dục cho người trẻ
học tập và tìm hiểu về lịch sử của
dân tộc Việt Nam cũng như lịch sử của
Phật giáo Việt Nam là để chuẩn bị cho
họ đầy đủ tư lương để
đi vào tương lai. Nếu mất gốc rễ
của mình trong hai dòng sống đó, con người
chẳng có cơ hội nào để sống cho lành
mạnh được. Cần thiết cho giới
trẻ là ý thức được mình trong cội
nguồn của mình để từ đó tiếp
nhận những sinh lực cho đời sống của
mình.
Nói với người trẻ
phải nói tới lý tưởng, tình yêu, sự
nghiệp. Tất cả những điều này
đều phải nói trong những mối liên hệ,
đúng như bản chất của nó; và chúng ta có
thể hướng dẫn cho người trẻ trong
chiều hướng tích cực. Người trẻ
thường sống và chăm lo cho tương lai.
Họ luôn có một mục đích để vươn
tới trong tương lai, họ đặt hoàn toàn
niềm tin ở tương lai. Điều này cho họ
có một sức phấn đấu mạnh mẽ. Tuy
nhiên tương lai luôn phải được đặt
nền tảng ở hiện tại, phải có gốc
rễ trong đời sống hiện tại. Tất
cả chỉ được thực hiện ở
đây và bây giờ. Đôi khi người ta chỉ
biết đầu tư cho tương lai, quần
quật làm việc và dần dà trở thành kẻ nô
lệ cho công việc lúc nào chẳng hay. Họ cho công
việc là cứu cánh, làm ra tiền và chạy theo
đồng tiền. Nhịp điệu của cuộc
sống hiện đại có thể cuốn mất
niềm an vui mà họ đang có. Công việc và máy móc do con
người tạo ra để thực hiện công
việc không gì khác hơn chỉ là phương tiện
của sự sống, nhưng vô tình con người
đã trở thành kẻ nô lệ cho công việc và máy móc.
Thiền tập trong đời
sống hàng ngày có thể giúp cho người trẻ
biết dừng lại và ý thức đời sống
của chính mình. Thiền tập không chỉ đem
lại cho con người những bình an, làm thư
giản trong nhịp điệu căng thẳng của
đời thường, nó còn hướng dẫn con
người sống một đời sống
hướng thượng. Sự dừng lại và
thực tập lắng sâu để có thể nhìn sâu
hơn trong những mối tương quan, chia sẻ
những niềm vui trong đời sống thực
tập, áp dụng những phương pháp tháo gỡ
những khó khăn trong đời sống gia đình.
Chúng ta phải thực hành và tìm ra những phương
pháp hữu hiệu để người trẻ có
thể thực hiện Phật pháp, thực hiện
Thiền tập trong chính những công tác hàng ngày của
họ. Không nên nói đến những giáo lý và tư
tưởng Thiền học chỉ có tính cách bàn suông.
Điều này có thể làm mất thời gian và làm cho
nhiều người nhàm chán, bởi họ không thấy
được tính chất thực tiễn của giáo lý.
Trong khi đức Phật đã từng dạy cho
mọi người rằng, pháp của ngài là đến
để mà thấy và thể nhập, thực chứng
nó, thấy được nó có thực sự ích lợi
cho đời sống của người thực hành. Ai
thực hành một ngày thì có hạnh phúc một ngày,
một giờ thì có hạnh phúc một giờ. Đó là
“Hiện pháp lạc trú”.
Người trẻ cũng có
nhiều hạng người có những quan niệm khác
nhau. Họ vẫn có những vấn đề tôn giáo
cổ sơ và thậm chí có những mê tín. Họ tin
Phật như là vị thần ban phước giáng
hoạ và đến chùa chỉ để lễ lạy
cầu xin. Chúng ta không thể nói một cách giống nhau
trong mọi trường hợp. Có thể dùng
phương tiện đáp ứng những vấn
đề tôn giáo của họ rồi dần dà
hướng dẫn cho họ đức tin chánh tín.
Chỉ có niềm tin chân chánh trong Phật pháp mới có
thể giúp họ được trong đời sống
và mới giữ được niềm tin của họ
đối với Phật pháp. Khuyến khích người
trẻ đọc và học những sách vở về
Phật học nhằm phát triển trí tuệ và bồi
dưỡng cho đời sống tâm linh. Trong Phật
học có đầy đủ mọi phương
diện để rèn luyện tâm tánh cũng như rèn
luyện thể chất. Giúp cho người trẻ
tiếp cận được với các nhà Phật
học có uy tín, các bậc chân tu trong nước cũng
như trên thế giới trong việc phát triển trí
tuệ và tâm linh. Học thế học và cũng
đồng thời phải học thêm về Phật học
để có một sự phát triển toàn diện về
nhân cách và tri thức. Con người học Phật luôn
luôn chứng tỏ là người biết đi cùng và
đi trước thời đại, thích nghi sống hài
hòa mà không bao giờ bị đồng hóa, đi
trước mà không bị ảo tưởng.
Còn một điều nữa có
thể ảnh hưởng khá mạnh mẽ đối
với giới trẻ đó là văn hoá nghệ
thuật. “Văn dĩ tải đạo”, những tác
phẩm văn học, những áng thơ, những khúc
nhạc... đều có thể làm cho người trẻ
có nhiều cảm tình chân thành với đạo pháp. Trong
các bài giảng có nhiều tính chất văn học, có
thể có nhiều thu hút người nghe hơn những
bài chỉ nói những giáo lý khô khan. Có thể lấy
những áng thơ văn của người đời
để làm giàu thêm cho bài giảng. Thậm chí chúng ta
cũng dùng đến những khúc nhạc có thể
chuyển tải được giáo lý và hát lên khi cần
thay đổi không khí. Khi họ thích những áng thơ
văn đó, cùng với sự dẫn dắt khéo léo
của người thuyết giảng, chúng ta có thể
đưa họ thâm nhập giáo lý một cách dễ dàng.
Họ không còn thấy Phật pháp là cái gì khó nuốt mà là
rất sống động và thực sự có niềm vui
khi đi nghe pháp.
“Tất cả thế gian pháp
đều là Phật pháp”, chúng ta cần để ý
đến câu kinh ấy để áp dụng trong công tác
hoằng pháp của mình. Tóm lại ở đề tài này,
chúng tôi chỉ trình bày những nhận thức của
mình về vấn đề hoằng pháp với tuổi
trẻ. Điểm qua một số nguyên lý Phật
học, những vấn đề đã có sẵn trong
giáo lý của đức Phật, vấn đề là làm
sao chuyển tải nó cho phù hợp với nhận
thức của lớp người trẻ tuổi,
tương lai của dân tộc và của thế giới
ngày mai, nhằm làm cho Phật pháp không bị lu mờ trong
đời sống con người. Chúng ta có thể nói
đến ý tưởng hiện đại hoá Phật
giáo cũng được, bởi vì thời đại
mới, nhận thức mới, thì cũng cần có
sự canh tân trong vấn đề trình bày giáo lý, không có
gì sai, cốt yếu là không mất đi cái tinh ba của
Phật học. Đạo Phật vẫn là
chiếc bè cần thiết khi đời sống con
người còn nhiều khổ đau. Và trách
nhiệm nặng nề vẫn đang còn đó
đối với những người hoằng pháp.