1. Quyền được thừa kế của người đi trước.
"Thưa Thầy, hãy giao cho con phần thừa kế của con!"
Rahula, 7 tuổi, người con trai duy nhất của Phật đã nói như thế khi
gặp lại phụ thân mà không biết đó là phụ thân sau 7 năm xa cách, thái tử
Tất Đạt Đa lúc ấy đã thành Đức Phật Cồ Đàm, đang khổ hạnh khất thực.
Rahula vâng lời mẹ, đến níu áo vị Thầy tu "xa lạ" là Đức Phật đòi hưởng
thừa kế của mình. Thoạt đầu, chuyện đòi thừa kế mang một nghĩa thông
thường có tính vật chất: thừa kế của cải. Thân mẫu của Rahula, hoàng hậu
Da Du Đà La ngầm mong con mình được thừa hưởng ngôi vị Đức Phật trong
quốc vương vua Tịnh Phạn như người thừa kế ngôi vua.
Nhưng Rahula đã được hưởng thừa kế khác mà Đức Phật người đã bỏ ngôi
báu để trở thành Đấng Giác Ngộ, khi trả lời sự đòi hỏi của con, đã đề
nghị và người con chấp thuận. Rahula đi theo Phật, được sự dẫn dắt của
Phật.
Trước thời điểm ấy và ngay sau thời điểm ấy, Rahula một cậu bé thời
Đức Phật cũng bình thường giống như một cậu bé hay cô bé đời này, giống
nhau ở tuổi non, ở tuổi thơ, tuổi chưa thành niên, tuổi đang được nuôi
dưỡng, đang được uốn nắn. Ở cái tuổi ấy, mọi người trẻ đều dựa vào người
đỡ đầu, những bậc cha mẹ, người đã trưởng thành, phụ thuộc vào những
điều kiện xã hội mà đứa bé sinh ra.
|
"Người trẻ có quyền và được có quyền đòi hỏi thừa kế gia sản,
tài sản của thế hệ ông, cha, mẹ, những người đi trước". Ảnh minh họa:
phattu.com |
Dù cho trong một điều kiện nào, giàu hay nghèo, sang cả hay cùng
đinh, chúng ta hãy nói một điều cơ bản cho tuổi trẻ: người trẻ có quyền
và được có quyền đòi hỏi thừa kế gia sản, tài sản của thế hệ ông, cha,
mẹ, những người đi trước. Người trẻ phải được dành cho quyền ấy, được
quyền ấy như một định chế xã hội. Hay nói khác đi, người đi trước có
trách nhiệm trao lại di sản cho người đi sau.
Trong trách nhiệm xã hội ấy, chính người đỡ đầu có bổn phận đưa ra
một lựa chọn cho người trẻ, chọn lựa ấy đi liền với triển vọng giáo dục
cho người trẻ trở nên con người hoàn thiện. Đồng thời, người trẻ có thể
lựa chọn dưới sự hướng dẫn chân thật và thành tâm của người đỡ đầu bước
đi tương lai của mình, mặc dù sự lựa chọn ấy chưa hẳn hoàn toàn tự do,
còn nằm trong điều kiện xã hội khi mới sinh ra. Một trong những trách
nhiệm lớn của người đi trước với người trẻ chính là đạo đức hay đời sống
tinh thần của con người. Cho nên khi nói về tha hoá đạo đức của lớp trẻ
trong xã hội ngày nay, phải truy tầm trách nhiệm xã hội của những người
đi trước, có nghĩa phải xét đến trách nhiệm giáo hoá của người đi trước
đối với người trẻ đang học làm người. Hiện nay đang là điều khẩn trương
thực tế.
Đức Phật đã nói với cậu bé La Hầu La: "Con biết không, Rahula, ta là
cha của con. Theo thường các người cha để lại cho con mình những gì họ
sở hữu. Đó là phần thừa kế. Ta có ít sở hữu. Cái bình bát này dùng để ăn
xin và cái áo này. Đó là tất cả. Điều sở hữu thật sự duy nhất của ta là
minh triết và đức tốt. Ta không có "đồ vật". Trong cung điện, con có
nhiều đồ đẹp đẽ, áo quần sang, thức ăn ngon và nhiều bạn chơi với con.
Đó là phần thừa kế mà ông nội con và mẹ con có thể cho con. Còn bên cha
thì không có bạn chơi đùa, chỉ có thức ăn như trong bình bát này và áo
quần như cái áo này. Nhưng bên cha thì người ta có thể học nhiều điều mà
trong cung điện không thể học được: sự khôn ngoan minh triết, tính tốt
và thương người. Đó là phần thừa kế mà ta có thể cho con. Nếu con có nó,
con có thể theo ta, đó là điều đẹp nhất mà ta có thể cho con, nhưng nó
không thích thú lắm đâu".
Cậu bé Rahula nói: "Nếu phần thừa kế của cha là minh triết, điều lành
và từ bi, thì con muốn có nó".
"Con biết không, Rahula con có thể thử một vài ngày, có lẽ con sẽ
không thích thế. Ví dụ con có thể không ngủ trong nhà và trong giường mà
ngủ trong rừng, dưới nhiều cây. "Như những tên cướp?". "Phải, Rahula
giống như những tên cướp và những bậc thánh". "Như thế thì con theo"
Rahula đi theo các nhà sư. Với tài thông mẫn Đức Phật đã chỉ cho con
tất cả những điều cần học và thực hành về đạo đức, quán tưởng và sự khôn
ngoan minh triết.
2. Ba ví dụ trong Kinh minh hoạ ba nguyên tắc cơ bản
trong tiến trình giáo hoá người trẻ của Đức Phật:
Bằng phương pháp thực nghiệm và ẩn dụ trong đối thoại, chứ không nói
lí thuyết suông, không đưa ra những phán đoán mệnh lệnh. Đức Phật đã
từng bước hướng dẫn cậu bé La Hầu La đi đến sự thừa hưởng đích thực phần
thừa kế mà cậu chọn lựa và thực hành:
Không nói dối là điều kiện tiên quyết để bảo vệ sự thật: Mục đích cao
nhất của giáo hoá con người là giúp con người tìm ra chân lý. Chân lý
và sống trung thực với mình với người là cho điều kiện hoà bình nội tâm
và nguyên tắc hoà hợp với người khác. Thay vì định nghĩa "chân lý" là
gì, đối mặt với cậu bé, Đức Phật hướng dẫn La Hầu La nhận chân nói dối,
sai sự thật là điều tai hại cho chính trái tim của mình bằng cuộc nói
chuyện sau đây: "Rahula, con biết không? Với số nước trong cái muỗng
cũng như với chân lý". "Thưa Phật, giống với chân lý là như thế nào?"
Đức Phật cho một ít nước vào cái muỗng và hỏi: " Con có thấy chút
nước nào trong muỗng không?" "Dạ thấy". Nếu có người khi nói không thận
trọng, và thực sự không cẩn trọng để luôn luôn đứng trong sự thật thì sẽ
nhận được ít điều lành như chút nước vào cái muỗng ấy". Rồi Phật hất
mạnh tay đổ hết nước khỏi cái muỗng và hỏi cậu bé có nhìn thấy Phật làm
gì không. Dạ có
"Và khi con người không cố gắng nói sự thật, thì họ cũng hất đổ điều
lành trong mình ra ngoài như người ta vừa đổ nước vậy". Rồi Phật úp cái
muỗng lại: "Và nếu con người không cố gắng giữ gìn sự thật thì họ cũng
đối xử với điều lành tựa như úp cái muỗng vậy.
Nói xong Phật lại úp ngửa cái muỗng ra: "Con có thấy bây giờ cái
muỗng rỗng hoàn toàn không? Dạ thấy. Cũng như thế trái tim của những
người không cố gắng theo sự thật sẽ trống rỗng như cái muỗng này"...
Với những ẩn dụ sống động, được nghe hỏi, quan sát và chứng nghiệm,
khái niệm đạo đức "không nói dối" đã được đưa vào tâm trí của cậu bé,
thuyết phục và trở thành hành vi đạo đức. Hành động đạo đức "không nói
dối" có nghĩa không khác gì hơn là "nói thật" và qua đó bảo vệ sự thật.
- Vận dụng tất cả những khả năng mà con người có được để tìm chân lý
và bảo vệ sự thật: Tính yếu của đạo Phật nằm trong lời dạy cơ bản rất
đơn giản mà Phật hướng dẫn cho cậu bé 11 tuổi, đơn giản mà sâu xa vô
lượng. Chúng ta nhớ đến câu nói của triết gia E.Kant "hãy can đảm sử
dụng trí tuệ của mình" tuyên ngôn thời khai sáng châu Âu ở thế kỷ 18,
đề cao giá trị nhân bản tuyệt đối của con người, khả năng giải phóng con
người khỏi tình trạng lệ thuộc người khác, lệ thuộc thế lực, lệ thuộc
tham vọng.
Trước đó 22 thế kỷ, Đức Phật đã khám phá và thực hiện điều này khi
tìm ra chân lý giác ngộ và hướng dẫn cậu bé La Hầu La, còn vị thành niên
trên đường đến tuổi trưởng thành. Phương pháp giáo hoá của Phật sinh
động nhằm khai mở óc quan sát, phân tích, quan sát, khả năng trí tuệ hay
"tính sáng" của cậu bé và từ đó chính cậu bé nhận ra sự thật, nắm được
tri thức đúng đắn, chân thật.
Phương pháp này đi từ kinh nghiệm và óc quan sát của chính cậu bé La
Hầu La: "Này Rahula con, trong thành Ca Tỳ La Vệ các người có nhiều con
voi trận to lớn và dũng mãnh phải không? Thưa có, chúng lớn dữ dội và
mạnh kinh hoàng! Con hãy tưởng tượng con voi trận của hoàng gia.
Hãy tưởng tượng, nó được đem vào chiến trận, nó chiến đấu trong đó
bằng cách đưa đầu nó ra và đưa hai ngà voi, đưa thân thể mạnh mẽ và bốn
chân của nó. Phải chăng người ta quên dạy nó điều gì, còn có cái gì mà
con voi phải sử dụng nữa không?
" Thưa thầy, rõ ràng là con voi chưa dùng vòi của nó. Một con voi
thường có cái vòi hoàn toàn mạnh và cuồn cuộn bắp thịt, nó chưa dùng vòi
cho trận đánh" "Giỏi, Rahula, đúng như thế, người ta chỉ sẵn sàng lâm
chiến đúng thực khi người ta sử dụng đầy đủ và toàn diện tất cả những
sức mạnh và khả năng mà ta có. Cũng y hệt như thế, ta phải đem hết tất
cả sức lực của mình, để không bao giờ nói dối, ngay cả khi chỉ nói dối
để đùa vui"
Triết gia thời khai sáng E. Kant đã nhận định không khác Đức Phật khi
khẳng định giá trị tuyệt đối của những nguyên lý đạo đức, trong đó châm
ngôn "không được nói dối" không thừa nhận một trường hợp ngoại lệ nào.
Nhưng trong phạm trù mệnh lệnh đạo đức của Kant trừu tượng hoá con người
như một cái khung cần đổ đầy mệnh lệnh, Đức Phật nhấn mạnh con người
"đem hết tất cả sức lực của mình" để không bao giờ nói dối.
- Quan sát hành động cuả thân- quan sát lời nói- quan sát tâm để
không nói dối và bảo vệ sự thật: Có thể nói toàn thể đạo đức học Phật
giáo nằm trong thực hành điều này xuyên suốt lời dạy của Đức Phật gồm
giới đinh tuệ (Bát chánh đạo). Giáo lý thâm sâu này đã được Đức Phật
truyền lại cho cậu bé La Hầu La vô cùng đơn giản: "Này con, hãy nói cho
ta nghe, ở trong cung các người có gương soi không? Dạ thưa, dĩ nhiên có
nhiều tấm gương! Để làm gì vây? Thưa để người ta có thể ngắm, xem mình
thật sự có mặc đẹp không, tóc có được uốn đẹp không?
Vâng Rahula, xem mình có ăn vận và chải tóc đẹp hay không là quan
trọng, nhưng người ta cũng có thể quan sát mình mà không cần soi gương!
Thưa làm thế nào?
"Thật ra điều quan trọng nhất là khi ta nhìn ngắm ta không phải để
xem mình có ăn mặc đẹp hay chải chuốt tóc có thẳng không, đúng hơn điều
quan trọng nhất là ta quan sát những hành động của ta: những cử chỉ với
thân thể, những cử chỉ với ngôn ngữ và những hành động trong tâm hồn.
Những điều ấy ta phải quan sát. La Hầu La ạ.
Kiểm soát hành vi liên quan đến thân- tâm- ngữ, để trung thực, không
dối trá là điều kiện đạo đức tiên quyết trong việc giáo huấn người trẻ
thành người tốt trong xã hội. Trách nhiệm ấy nằm trong tay người đi
trước cũng như của toàn thể xã hội. Sự suy thoái đạo đức, con giết cha,
người lớn hành hạ người trẻ, thầy lừa gạt trò, người tham nhũng, không
từ đâu khác là từ sự dối trá, che đậy sự thật, vô minh trong lệ thuộc
vật chất, đến từ những người có trách nhiệm giáo dục, đỡ đầu thanh thiếu
niên, đến từ cơ cấu xã hội sụt lở nền tảng nhân tính.
Ý thức về trách nhiệm thừa kế di sản mà Đức Phật đã trao tặng và giáo
hoá cho cậu bé La Hầu La có nghĩa lạc quan về một nền đạo đức Phật giáo
mang sức sống và phẩm chất cao quý cho con người của thời đại. Có
nghĩa, mỗi người Phật tử trong chúng ta, nhân ngày Phật đản, một dạ
"nguyện đem công đức này hướng về khắp tất cả" vận dụng sức mạnh của trí
tuệ và ý chí "không nói dối" để giải phóng di sản tệ hại, huỷ dịêt nhân
tính, xây dựng một truyền thống đạo đức dành cho tuổi trẻ tương lai như
một lần La Hầu La đã nhận ra ý nghĩa của lời Phật dạy qua chứng nghiệm
về phần thừa kế mà Đức Phật đã đề nghị cho mình.
Ngài là người trẻ tuổi nhất trong tăng đoàn đầu tiên của Đức Phật đã
biến phần thừa kế của mình thành quả giác ngộ chân lý. Ngài là vị A La
Hán với hạnh đạo đức sáng ngời trong lịch sử Phật giáo và là nguồn hy
vọng của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.
Thái Kim Lan (Tuần Việt Nam)
(*) Bài viết đã được đăng trong nội san Liễu Quán
số 16 tháng 5- 2010.