Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Công Nguyên, khi Thái
tử Tất Đạt Đa thành tựu giác ngộ và trở thành Đức Phật Thế Tôn Thích Ca
Mâu Ni. Từ lúc thành đạo cho đến khi nhập Niết bàn, Đức Thế Tôn không
ngừng sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh hoá độ vô số hữu tình. Giáo pháp của
Ngài vô cùng phong phú, nhiệm màu và thiện xảo để khế hợp căn cơ của vô
lượng chúng sinh ở nhiều trình độ khác nhau.
Vũ công trong trang phục xanh dương- sắc tiêu biểu cho Đức Phật Bất Động
Đối với một số đệ tử xuất chúng, Đức Phật hoá thân thành những Phật
bản tôn Kim Cương thừa để giúp chúng sinh tấn tốc thành tựu trên con
đường giác ngộ. Ngài đã dạy đệ tử sử dụng những kỹ thuật thiền định
thiện xảo. Khi ấy, Đức Phật hoá hiện thành những Phật bản tôn mang Pháp
tướng uy mãnh tượng trưng cho năng lực vô ngại của tâm đại từ đại bi.
Những chư vị Phật bản tôn đó nhảy múa theo hàng nghìn giai điệu oai
nghiêm khác nhau, diễn tả vô số những hoạt động lợi tha của Đức Phật.
Đây là nguồn
gốc ra đời các vũ điệu Kim Cương thừa thiêng liêng ở Ấn Độ.
Những vũ điệu này thường được phô diễn trong những buổi đại lễ Phật
giáo Kim Cương thừa. Trong những dịp như thế, các hành giả vũ công
thường nhảy múa một cách tự nhiên, tự do không bó buộc, không ngần ngại
hay ức chế. Theo thời gian, các vũ điệu Kim Cương thừa được hệ thống
hoá, được cắt nghĩa chú giải và truyền dạy lại cho những người tài năng
xuất chúng. Sự truyền thừa không gián đoạn từ Thượng sư xuống đệ tử đồng
thời được các kinh nghiệm thực chứng của những đại Thượng Sư làm cho
phong
phú hơn, đã bảo lưu gìn giữ được pháp môn vũ điệu Kim Cương thừa này.
Sắc đỏ của Phật A Di Đà hay còn gọi là Phật Vô Lượng
Quang - hiện thân của sự giải thoát khỏi ái chấp và ham muốn trong con
người.
Phật giáo Kim Cương thừa dạy rằng: Tất cả những phẩm chất giác ngộ của
chư Phật, Bồ tát, Dakini Trí tuệ vốn đều sẵn có đầy đủ trong mỗi chúng
sinh, và mối liên hệ với tự tính Phật ấy có thể được hiển lộ nhờ vào
những vũ điệu linh thiêng tự thân hóa Phật để khơi dậy niềm cảm hứng và
hiển hiện những phẩm chất ẩn tàng.
Vũ điệu Mandala Ngũ Trí Phật, Bốn Bồ tát Ba la mật và Bốn Phật Mẫu Bát
Nhã Kim Cương được trình diễn ngày hôm nay bắt nguồn từ Truyền thống
Kim Cương thừa của dòng họ Phật Thích Ca truyền từ thời Đức Phật Bản sư
Thích Ca Mâu Ni tại thế cho đến ngày nay. Đây cũng vũ điệu tương ứng với
chư Phật Bồ tát và Các Phật mẫu Dakini được an vị tại Bảo Tháp Mandala
Tây Thiên.
Vũ điệu Mandala này nêu biểu gia trì quán đỉnh trí tuệ, ban trải hòa
bình, hạnh phúc và năng lực cho người xem, cho quốc gia xã hội và muôn
loài chúng sinh. Vũ điệu Kim Cương Mandala Ngũ Trí Phật là nghệ thuật
giác ngộ vô cùng đặc biệt, ấn tượng, cao siêu và thâm diệu của Kim
Cương thừa, được cử hành nhằm chuyển tải năng lực mạnh mẽ của trí tuệ
thần lực gia trì giác ngộ, không chỉ lợi ích cho người tham dự và miền
đất cử hành nghi lễ mà còn giúp vô số chúng sinh giải trừ những điều
không
lành, tai nạn, năng lượng tiêu cực và giúp tăng trưởng cát tường phúc
báo hướng đến thành tựu giác ngộ.
Di chuyển theo chiều kim đồng hồ của 5 vũ công tạo thành hình Mandala- tức cõi Tịnh độ của Phật.
Vũ điệu Mandala Ngũ Trí Phật là một sự biểu đạt trí tuệ thanh tịnh cao
nhất của con người, là phương pháp chuyển hóa khái niệm nhị nguyên,
những nỗi buồn chán, thất vọng, thách thức, niềm vui và sự thành công
trong đời sống và sử dụng chúng để hiển lộ chiều sâu tâm linh siêu việt.
Ngũ Trí Phật có sự khác nhau quan trọng mang tính biểu tượng về y phục,
sắc màu, tư thế, cử chỉ Mật ấn và công hạnh lợi sinh khác nhau. Mục
đích của vũ điệu là giác ngộ - để hợp nhất tất cả các phương diện
tình yêu thương, lòng bi mẫn và tuệ giác của tâm chúng ta, để chứng
ngộ được chân lý ngay nơi vạn pháp; để trưởng dưỡng tâm bồ đề hòa nhập
vào trong cuộc sống đời thường với niềm cảm hứng bất tận.
Vũ điệu bắt đầu bằng quy y nương tựa Truyền thừa Thượng sư, chư Phật, giáo pháp và Tăng đoàn.
Khoảnh khắc tĩnh tại của các hành giả vũ công.
Tiếp đến là phát nguyện thực hành nhằm thực chứng tâm giác ngộ vì lợi
ích của hết thảy hữu tình. Hành giả Phật pháp không yếm thế, không trốn
tránh thế gian mà nhập thế thực hành Bồ đề hạnh đem lại an vui giải
thoát cho chúng sinh.
Sau đó là quán tưởng Ngũ Trí Như Lai trong Báo thân hào quang rực rỡ,
an trụ trong chân không. Bằng cách quán tưởng Ngũ Trí Phật trong chân
không phía trước, hành giả thiết lập nên cảnh giới Mandala của các bậc
giác ngộ với những phẩm chất trí tuệ và từ bi siêu việt. Tiếp đến, hành
giả đem hòa nhập cảnh giới giác ngộ siêu việt đó vào trong sự trải
nghiệm của chính mình.
Bằng cách múa các khế ấn kết hợp với bước chân di chuyển, các Sư ni
múa thuận theo chiều kim đồng hồ tạo thành những vòng tròn đồng tâm
Mandala để thực hiện nghi thức tịnh hóa những ác nghiệp và thiết lập nên
cảnh giới tịnh độ Mandala của Ngũ Trí Phật. Khi kết thúc nghi thức tịnh
hóa, họ quán tưởng tự thân là Ngũ Phật. Khi các Sư Ni giơ cao tay phía
trên đỉnh đầu và cúi mình xuống là giây phút đặc biệt cảm động, và cũng
là lúc kết thúc phần sám hối và tịnh hóa.
Bốn đức Phật mẫu Bát Nhã xuất hiện trong vũ điệu Phi hành thiên, du hí
tự tại trong không trung siêu việt, thể hiện cảnh giới của sự tỉnh thức
hoàn toàn vững chắc và an lạc tự do, bay tỏa ra các phương ban gia trì
lợi ích chúng sinh. Các Dakini Phật Mẫu vừa múa trong vũ điệu mandala
vừa cầu nguyện:
“OM AH HUNG! con xin cầu nguyện trước mười phương Như
Lai, hết thảy chư Bồ tát và các đức Phật mẫu. Trong cảnh giới tràn đầy
sự hỉ lạc, thanh tịnh xin các ngài hãy nhìn chúng sinh với lòng từ mẫn,
hãy gia hộ cho chúng sinh viên mãn mọi thiện hạnh cát tường. HUNG! Con
cầu nguyện trước khắp thảy Như Lai và Phật mẫu xin hãy ban ân đức gia
trì hết thảy như ý thành tựu! A la la ho A ra li ho”.
Các Sư Ni vừa di chuyển thuận chiều kim đồng hộ tạo thành hình mandala
vừa phát Bồ đề tâm nguyện lợi ích hữu tình. Pháp tu vũ điệu Ngũ Trí
Mandala có công năng viên mãn những sở nguyện thế gian cũng như ban gia
trì giải thoát giác ngộ siêu việt. Những động tác chuyển động của vũ
công hết sức linh thiêng và sâu sắc. Bằng cách dùng mật ấn và các vũ
điệu múa, các Ngài hướng về đức Phật và Bồ tát ở trung tâm Mandala để
tán thán, cúng dàng, tùy hỷ công đức chuyển bánh xe pháp vì lợi ích vô
số hữu
tình.
Các Sư Ni vừa múa vừa quán tưởng tự thân họ là thân khẩu ý giác ngộ
của Phật và đón nhận ánh sáng trí tuệ tỏa chiếu từ Ngũ Trí Phật, bốn Bồ
tát Ba la mật và các Phật Mẫu Trí tuệ Bát Nhã ban gia trì cho thế gian.
Họ biểu diễn nghi thức “truyền quán đỉnh ân đức gia trì quang minh” bằng
cách cúng dàng lên chư Phật, Bồ tát đón nhận ân đức gia trì từ các Ngài
và quán tự thân là Phật, rồi lại ban trải những ân đức gia trì ấy khắp
pháp giới để cứu độ chúng sinh khỏi luân hồi đau khổ.
Với vũ điệu tán thán Madala Ngũ phương Ngũ Trí Như lai, các Sư Ni Hành
giả thể hiện tự tính bên trong chính mình là khía cạnh giác ngộ của đức
Phật. Pháp thiền định phát triển bi tâm này giúp hành giả hòa nhập tình
yêu thương, lòng từ bi và trí tuệ vào trong đời sống thường nhật. Thân
thể vũ công chuyển động và Báo thân năm Đức Phật được thể nhập qua những
chuyển động ấy. Vũ điệu này không chỉ là sự thể hiện bên ngoài vào mà
là lưu xuất từ tự tính bên trong.
Trong suốt vũ điệu múa, các Sư Ni triệu thỉnh Ngũ Trí Phật theo ba
phương diện: phương diện thứ nhất là Ngũ Trí Phật thị hiện trong Pháp
tướng Báo thân Phật, phương diện thứ hai là hết thảy hữu tình đều vốn
sẵn đầy đủ tự tính của Ngũ Trí Phật; và phương diện thứ ba là Hành giả
chính là Ngũ Trí Phật.
Sự trải nghiệm phi thường là cách hành giả hòa nhập tâm linh siêu việt với thế giới
bên ngoài. Hành giả có thể vận dụng thực hành những phẩm chất giác ngộ
và những lời tán thán Ngũ Trí Phật trong đời sống hàng ngày.
Sau khi kế ấn và múa ngợi ca tán thán công hạnh và phẩm chất của Ngũ
Trí Phật, Bốn Bồ tát Ba la Mật và Trí trí tuệ Bát Nhã, một trong những
thời khắc quan trọng nhất của pháp tu vũ điệu Ngũ Trí Phật là giây phút
tĩnh lặng ngừng bặt mọi chuyển động. Các hành giả cùng thực hiện “Hoàn
toàn thư giãn buông bỏ thủ xả, an trú tâm trong vô niệm an lạc, trụ hoàn
toàn trong Đại Thủ Ấn.” An trú trong khoảnh khắc thực tại này hiển lộ
rực rỡ năng lực của pháp tu vũ điệu Kim cương. Tâm thức vắng bặt
mọi bám chấp, khổ đau phiền não, tự tính Phật tự nhiên vô tác hiển lộ.
Vũ điệu kết thúc bằng âm nhạc cúng dàng cầu nguyện hồi hướng công đức,
gia trì cát tường viên mãn mọi tâm nguyện và nguyện cầu Phật pháp trải
khắp muôn phương và trường tồn mãi mãi vì lợi ích của sáu đạo khổ não
chúng sinh.
Thái An