Phật giáo muốn tuyên truyền phải có giáo đường, ở giai đoạn đầu có
thể chỉ là những am miếu thờ Phật. Đầu thế kỷ III, Khương Tăng Hội gọi
những kiến trúc Phật giáo ở ta là “Miếu đường” hoặc “Tông miếu”, gợi lên
những điện thờ tổ tiên theo tín ngưỡng nguyên thủy mà người Việt rất
mực coi trọng; cho đến thế kỷ V, VI, thư tịch cho biết trên đất Giao
Châu đã có tới hai mươi Chùa Tháp. Từ cuối thế kỷ VI, với sự phát triển
của dòng Tì Ni Đà Lưu Chi, Phật giáo do dung hợp các tín ngưỡng dân gian
để đi sâu vào quần chúng, và do đó Chùa Tháp phải được xây dựng khá
nhiều. Nhưng cũng do nó hội nhập đủ thứ thần linh bản địa, mà cho đến
hết thời Bắc thuộc, Chùa Tháp vẫn chưa có được một mẫu hình chuẩn, còn
tự phát tùy theo tập tục địa phương. Những ngôi Chùa dựng trong suốt
thời Bắc thuộc, cho đến nay không để lại dấu vết gì ngoài những ghi chép
vắn tắt của thư tịch.
Trải qua giai đoạn đầu của thời kỳ tự chủ ở thế kỷ X, trong bước quá
độ xây dựng đất nước, các sư Tăng đã là những trí thức tiêu biểu, phục
vụ đắc lực cho chính quyền trung ương tập quyền, đặc biệt đã chuẩn bị
tích cực cho việc thành lập nhà Lý. Và nhà Lý đã tạo mọi thuận lợi cho
Phật giáo trở thành quốc giáo.
Nhưng Phật giáo đời Lý với ba dòng Thiền là Quán Bích, Tì Ni Đa Lưu
Chi và Thảo Đường có khuynh hướng tu hành và đối tượng phát triển khác
nhau, cũng tất yếu dẫn đến các hình thức điện thờ Phật khác nhau. Theo
sử gia Lê Văn Hưu, trong nước “chỗ nào cũng có Chùa”, hay như Nho thần
Lê Quát ở bia Chùa Thiệu Phúc thì “chỗ nào có người ở tất có Chùa thờ
Phật”. Và cụ thể hơn như bia Chùa Linh Xứng: “Hễ có cảnh đẹp núi non thì
không nơi nào không xây dựng Chùa chiền”. Xây dựng ở nơi thắng cảnh nên
Chùa Tháp thời Lý phần lớn là những danh Lam. Nhà Lý dựa vào số tự điền
và canh phu, chia các Chùa đẹp ra làm ba loại là đại danh Lam, trung
danh Lam và tiểu danh Lam.
Trong kiến trúc Chùa Tháp thì càng ngược về nguồn, Tháp càng đóng vai
trò chính, là cái đền Phật giáo. Từ khi Phật giáo mới vào ta, nơi hành
đạo của các sư Tăng chính là Tháp. Thời Lý xây rất nhiều Tháp, chỉ kể
những Tháp được ghi lại cũng đã gần được 20, trong một số để lại phế
tích đều là Tháp lớn. Phật tích, Tường Long, Chương Sơn, Long Đội … khảo
cổ học đã đào được nền lõi Tháp Tường Long cạnh 8m và nền Tháp Chương
Sơn cạnh hơn 19m, tất cả đều bình diện vuông. Gạch xây Tháp Phật tích có
in hình những cây Tháp giống nhau đều chín tầng, có chiều cao gấp 5
cạnh chân. Các Tháp thời Trần còn lại có chiều cao gấp 4 cạnh chân. Nếu
Tháp thời Lý có cùng tỉ lệ trên thì phải cao khoảng 30, 40m (Tháp Phật
tích, Tháp Tường Long) đến 70, 80m (Tháp Bảo Thiên, Tháp Chương Sơn)
biểu hiện khí thế vươn lên của cả dân tộc, phù hợp với hình tượng trong
thơ văn và số liệu trong sử sách. Những cây Tháp thời Lý thường xây trên
lưng chừng hoặc những đỉnh núi không cao mấy đột khởi giữa đồng bằng là
thắng cảnh tự nhiên, lấy núi vững chãi làm nền để tôn vẻ bề thế nguy
nga của mình.
Những cây Tháp ấy là kiến trúc chính của toàn cảnh Chùa và chính thức
là điện thờ Phật, trong lòng Tháp có đặt tượng Phật. Các Phật tử tiến
hành nghi lễ quanh tượng Phật, có thể ở ngay trong lòng Tháp hoặc chung
quanh Tháp. Riêng Tháp Chùa Bảo Thiên với tên Đại Thắng Tư Thiên thì cơ
bản là đài chiến thắng, tuy ở Chùa và 4 cửa Tháp có 4 đôi tượng Kim
Cương, nhưng trong tượng đền Tháp lại có tượng người tiên, chim muông,
giường ghế, chén bát bằng đá.
Tháp Lý với bình diện vuông được bắt nguồn từ các Tu viện Phật giáo
Ấn Độ vốn là kiến trúc trải rộng được biến thành kiến trúc cao tầng bình
diện vuông hình Tháp, trong có tượng Phật, là nơi thờ. Bình diện vuông
của Tháp, theo tư duy Việt cổ quan niệm trái đất vuông, được bốn phương
neo giữ. Những cây Tháp cao ấy không trơ trụi, lại hòa với hành lang,
giải vũ ở hai bên, với những tòa nhà ở phía sau, và cây cối …tạo thành
một cảnh quan tổng thể có cả chiều cao và bề rộng, vừa thiêng liêng vừa
ấm cúng.
Phong phú hơn Tháp cả về số lượng và kiến thức phải là Chùa. Dựa vào
thực địa và thư tịch có thể chia Chùa thời Lý thành 4 loại có bố cục
khác nhau. Trước hết là kiểu Chùa đựng trên một cây cột, phát triển theo
kiến trúc Tháp, tiêu biểu là Chùa Một Cột, tuy của hoàng gia nhưng đã
đi lên từ kiến truyền thống mà gần đây còn thấy trong dân gian là cây
hương đặt trên đầu cọc, hay trên trụ gạch, toàn thể là bông sen nghệ
thuật khổng lồ.
Loại thứ hai là những loại Chùa vừa cầu Phật để cầu trúc hoàng gia
vừa là hành cung để vua nghỉ ngơi khi du ngoạn quanh vùng. Loại Chùa này
thường được vua đến thăm và để di bút, có quy mô lớn, ngoài Tháp còn có
nhiều kiến trúc Phật bề thế.
Loại Chùa thứ ba không có Tháp, cũng không phải là hành cung, quy mô
có kém một chút nhưng còn rất lớn, phát triển theo chiều sâu và nâng cao
dần, hai bên cân đối, khu điện thờ bố cục gần giống mặt bằng của Tháp.
Ngoài ra, còn những Chùa nhỏ lẫn trong thôn xóm, lúc đầu chỉ có thể là
cái am, là nơi tu dưỡng của nhà Sư, sau đó được mở mang nhưng cơ bản là
đẹp trong khuôn khổ gọn nhỏ. Nhìn chung các Chùa thời Lý có quy mô lớn,
nhưng Phật điện nhỏ, tượng thờ còn ít, thường chỉ có một pho tượng Phật
ứng với một chiếc bệ chỉ đủ chỗ cho một pho tượng, trong cách thờ có sự
tương đồng với cả khu vực Đông Nam Á.
Từ thời Trần, Phật giáo còn để lại một số Phật điện và Tháp khá
nguyên vẹn. Ở giai đoạn đầu, các Thiền gia nổi tiếng tập trung ở các
tầng lớp trên, nên Chùa Tháp thường được xây dựng dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Nhà nước, như Chùa Phổ Minh.
Đến cuối đời Trần, do sự phân hóa xã hội mạnh, Chùa làng phát triển
còn để lại một số điện thờ và nhiều bệ thờ bằng đá. Do quan niệm “vô
chấp” nên Chùa là nơi đàm đạo Phật pháp của chư Tăng và Phật tử, có khi
thờ Phật mà không cần đến pho tượng nào. Chùa không gắn với hình Phật mà
không cần đến cả tượng Phật nên ngày nay chưa tìm được pho tượng Phật
nào. Chùa không gắn với hành cung nữa mà thuần túy là nơi tu hành. Một
số Chùa có Tháp, nhưng Tháp không còn là kiến trúc trung tâm nữa, xây ở
ngay sân trước, vẫn nhiều tầng, cao khoảng trên dưới 15m, lòng hẹp không
đủ sức làm một Phật điện, nên phải có một điện thờ Phật ở phía sau.
Các Chùa làng như Chùa Thái Lạc và Chùa Bối Khê còn giữ được điện
Phật xây trên nền cao, mỗi cạnh trên dưới 10m tạo một nền đế gần vuông,
bên trên dựng một kiến trúc một gian hai chái, trên mái với các đao cong
như bông hoa. Bộ chung gỗ chủ yếu gồm hai vì kết cấu theo lối chồng
giường ở hai bên giá chiêng đặc tạo ra nhiều điện để trang trí. Do điện
Phật ở trên nền cao, không có tường vách, bên trong thoáng sáng, nên các
hình chạm trang trí trau chuốt và ở trên cao vẫn rõ ràng.
Ở một số Chùa làng, trong điện Phật còn giữ được điện thờ bằng đá dài
suốt chiều rộng gian giữa Chùa 3m và cao rộng hơn 1m, được người xưa
gọi là “Phật bàn” hay “Phật thạch bàn” tức bàn đá thờ Phật như một nhang
án, không có dấu vết tượng đặt trên, và cũng chưa phát hiện được pho
tượng Phật nào. Có thể dân gian đã thờ tranh Phật hay chữ “Phật” chăng?
Sang thời Lê sơ, Phật giáo bị Nhà nước hạn chế, Chùa mới không được
xây, Chùa cũ hỏng bỏ hoặc phải dồn nhiều Chùa làm một. Ở một vài làng
quê đã tìm được bia đá liên quan đến việc trùng tu Chùa. Tuy nhiên số
lượng rất ít và dấu tích vật chất của kiến trúc cũng không có gì chắc
chắn.
Qua sự khủng hoảng của Nho giáo ở đầu thế kỷ XVI, triều Mạc ra đời đã
nhanh chóng ổn định xã hội, phát triển kinh tế cả nông nghiệp, tiểu thủ
công và thương nghiệp. Sự cởi mở về tư tưởng kết hợp với sự ổn định về
kinh tế đã làm cho Phật giáo được phục hồi. Cùng với sự bảo trợ của lớp
quý tộc mới, nhân dân các làng xã đã sửa chữa và dựng mới nhiều Chùa.
Các Chùa làng thời Mạc về cơ bản vẫn theo hình mẫu Chùa làng cuối thời
Trần nhất là về kiến trúc. Tuy nhiên, nếu như các Chùa từ thế kỷ XV trở
về trước, trên điện Phật rất ít tượng, thì từ thời Mạc do cách thờ Phật
theo lối “Thế gian trụ trì Phật pháp” đòi hỏi phải có hình ảnh cụ thể về
thế giới nhà Phật, nên điện Phật đã khá đông đúc cả về số lượng và
chủng loại mà tùy từng Chùa đã tìm thấy bộ ba tượng Tam Thế, một số
tượng Quan Âm Nam Hải, có cả tượng Thích Ca sơ sinh, thậm chí cả các
thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp thành bộ Tứ pháp cũng được Phật hóa… nhưng nói
chung vẫn là những nhân vật Phật thoại và thần thoại. Do đó, điện Phật
vẫn là tòa Tam Bảo nhưng được mở rộng hơn về hai bên để rõ hình chữ
nhật. Điện Phật đông vui thì đồng thời cũng bình dân hơn, và Chùa làng
thực sự là trung tâm văn hóa của làng xã.
Vào thế kỷ XVII, do chiến tranh Trịnh Nguyễn kéo dài, nhân dân bị
động viên cả người và của không đủ sức dựng Chùa riêng cho làng nữa,
tầng lớp quý tộc không tin ở thực tại nữa tìm đến cầu cứu cửa Phật, và
đã xuất tiền của cho việc mở mang cảnh Chùa. Đồng thời Phật giáo Trung
Hoa với phái Lâm Tế và Tào Động cũng thừa cơ du nhập vào ta. Trong Chùa
ngoài các loại tượng như ở thời Mạc, giờ đây có thêm bộ ba tượng Di Đà,
tam tôn Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Tuyết Sơn …thuộc thế giới Phật
thoái, và cả tượng các cao Tăng đã trụ trì tại Chùa, các vị Phật tử góp
nhiều tiền của cho Chùa … tức những người thực đã có những việc thực
tiễn ích cho Chùa. Ngoài ra, một số cao Tăng có công khai sáng Chùa,
được truyền thuyết với nhiều phép nhiệm mầu, giờ đây được trở thành “Đức
Thánh” linh thiêng được dành nơi thâm nghiêm và trang trọng nhất của
Chùa để thờ. Do Phật điện đông đúc, điện Phật một nếp nhà chữ nhật không
đủ sức chứa nữa, lại càng không có chỗ hành lễ, nên khu vục thờ của
Chùa ngoài điện Phật chuyển sang chữ “Công”, còn có thêm nhà Tổ nữa, và
đặc biệt một số Chùa có cả điện Thánh, ngoài ra còn có hành lang giải vũ
ở hai bên để chuẩn bị cho các dịp hội Chùa hàng năm. Thế là mặt bằng
kiến trúc Chùa kiểu “Nội công ngoại quốc” ra đời, có nghĩa là vừa phát
triển ngang, phát triển dọc lại bao quanh nữa, lại còn ở rải rác vườn
Chùa có các Tháp mộ Sư nữa.
Chuyển qua thế kỷ XVIII, các kiểu Chùa của thế kỷ XVII vẫn duy trì,
có thêm một số tượng nữa như Kim Cương và đặc biệt nhiều Chùa tô vẽ bộ
phù điêu Thập Địa Diêm Vương để răn đe kẻ ác.
Đến thời Tây Sơn, với sự phát triển của phong trào chính trị từ Nam
ra Bắc, và được sự ủng hộ của cả một số trí thức tiên tiến yêu nước,
Phật giáo có bước phát triển mới, nghệ sĩ tìm hiểu các thế thứ Sư tổ của
Phật giáo Đại thừa để biểu hiện tình cảm, ca ngợi và phê phán xã hội,
đã dẫn tới việc làm mới một số Chùa mà nổi trội lên là Chùa Tây Phương ở
đỉnh một núi đất không cao mấy. Chùa chính gồm 3 nếp nhà song song kiểu
chữ “Tam” giản cách bởi hai sân hẹp để thông thoáng và lấy ánh sáng,
từng nếp nhà lại theo kiểu chồng giường 2 tầng 8 mái, nâng chiều cao
không gian trong Chùa thích hợp với nhịp điệu các tượng đứng ngồi xen kẽ
nhau. Bao quanh chữ “Tam” là vòng tường hồi tưởng lại chữ “Công”.
Thế kỷ XIX tiếp tục xây thêm nhiều Chùa, nhất là khu vực Huế, có sự
bảo trợ của triều đình, còn ở ngoài Bắc chủ yếu là Chùa làng do dân đóng
góp xây dựng, nhưng ở những Chùa lớn được sự “công đức” của thương nhân
hy vọng buôn may bán đắt, nên tượng ngày càng nhiều và phức tạp, bên
cạnh bộ tượng “Thập Bát La Hán” bày kín hai hành lang, trong khu điện
Phật còn cả tượng Quan Âm Thị Kính, Lão Đam, Ngọc Hoàng, Nam Tào Bắc
Đẩu, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Thập Điện Diêm Vương… lại còn thêm cả điện mẫu
để con hương đệ tử hầu đồng bóng, tất cả tạo nên một sự pha tạp hỗn độn.
Chùa Tháp là kiến trúc Phật giáo, song Phật giáo ngay từ khi du nhập
vào ta trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm đô hộ, đã gắn liền với làng
xóm, nên Chùa cũng mang tính dân gian của người lao động. Ngay trong
giai đoạn thịnh hành nhất ở thời Lý, bên cạnh đại danh Lam diễu hành
cung đã không ngăn cấm người bình dân, đã có những tiểu danh Lam, những
am và Chùa làng. Chùa làng từ cuối thời Trần ngày càng phát triển, là
một cụm trong tổng thể xóm làng, của dân làng, và cả khi có sự bảo trợ
của quí tộc vẫn là trung tâm văn hóa của địa phương.
Nhìn chung kiến trúc Chùa Tháp là sự tổng hòa của kiến trúc vật nơi
môi trường, có các loại nhà cửa quan hệ hữu cơ với hồ ao, sân, vườn đủ
loại cây cao thấp, tất cả được quây lại bằng hàng rào hoặc tường xây để
giữ nguyên tắc khép kín. Nguyên tắc này còn được đặc biệt coi trọng ở
nhiều Chùa có “điện Thánh” thâm nghiêm kín đáo. Thậm chí cả khi “điện
Phật” từ thời Mạc về sau dù hình đồ chữ “Công” hay “nội công ngoại
quốc”, và cả “nội tam ngoại công” thì cũng biệt lập với bên ngoài, tạo
ra một thế giới Tôn giáo, một “đất Phật” để ai cũng thấy được thăm cảnh
riêng. Nhưng ngay trong sự khép kín lại có nguyên lý mở, trước hết là sự
hòa quyện của nhà cửa với vườn cây và ao hồ, thực và hư, huyễn ảo, nhân
quy mô lên. Từng kiến trúc cụ thể có kết cấu riêng, song không ngăn
tách ra bằng tường xây, không tạo ranh giới dứt khoát, mọi dòng chảy của
du khách, cả của ánh sáng đều không bị ngắt quãng, vào trong nhà rồi
vẫn thấy ngoài trời, lúc nào cũng gần gũi thiên nhiên.
Cái tổng thể và cả cái kết cấu bộ khung gỗ của Chùa cũng hoàn toàn
cùng quan niệm với ở nhà dân, nếu không phải là kiến trúc dân gian (rõ
nhất là các đại danh Lam thời Lý ), thì cũng là những kiến trúc mang
tính dân gian.